Chuyện Tâm Linh Có Thật
Người Việt ở ngoại quốc nói chung, ở Hoa
Kỳ nói riêng, sau hơn mấy mươi năm lưu lạc đã trở thành một biểu tượng sâu sắc
và gương mẫu khiến cho đa số người dị chủng dành cho sự thán phục xen lẫn cảm
tình và quan tâm, đến nỗi họ xem những tập quán cố hữu của tiền nhân chúng ta
để lại được lưu truyền tại đất này đúng như những tấm gương trong sáng, họ cần
tìm hiểu và học hỏi về những đặc tính thông minh đạo hạnh, cầu tiến, cần cù
nhẫn nại từ từng cá nhân, gia đình cho đến cộng đồng xã hội.
Tuy vậy, thỉnh thoảng hoặc đôi khi trong
cuộc diện sinh hoạt thường hằng của người Việt tỵ nạn, vẫn thường xảy ra những
tệ đoan xã hội thật đáng tiếc khiến báo chí hay các cơ quan truyền thông phải
đề cập tới bằng những lời lẽ hằn học hoặc công kích phê bình thiếu vô tư dành
cho cộng đồng người Việt, mà thực ra, khó có cộng đồng nào có thể tránh khỏi
giữa một quốc gia tạp chủng và lại tự do đến độ gần như mù quáng này. Nhưng nếu
tỉ mỉ đem so sánh bằng sự công tâm qua mật độ dân số giữa các nước đang cùng
sinh sống trên vùng đất này, người ta sẽ nhận ra rằng, những dữ kiện xấu do
thiểu số thanh thiếu niên Việt Nam gây ra bởi sự nông cạn nhất htời vẫn chỉ là
một tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên, cho dù nhỏ đến thế nào đi nữa, thì thường khi phải
chứng kiến một sự kiện không tốt đột ngột xảy ra ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ
lúc nào, nếu thấy có tính cách xúc phạm đến thanh danh của dân tộc, thì có thể
nói, hầu như mọi người Việt Nam ở đây đều sẵn sàng can thiệp hoặc trợ giúp tức
thời những người gặp nạn với một tinh thần hăng hái hoặc bằng những giải pháp
hoàn toàn thích hợp và đầy ắp tình người.
Trường hợp của người thanh niên tên Đức bị
một vong hồn thiếu nữ nhập xác, biến anh thành một người dở khùng dở dại, bỏ
phế đời sống tươm tất cùng công ăn việc làm ổn định, đêm ngày đi lang thang nơi
đầu đường xó chợ, chuyên tìm kiếm bươi móc, ăn uống các loại uế tạp cặn bã dư
thừa hư thúi ở các thùng chứa rác rưởi là một thí dụ điển hình về tinh thần đạo
hạnh và tình nghĩa nhân ái thâm sâu của các đồng bào ruột thịt.
Là một thanh niên chăm chỉ, có học vấn lại
hiền lành khỏe mạnh, nhân dáng chững chạc dễ coi. Nhưng câu chuyện của người
thanh niên một thân một mình tên Đức này vượt biên chung trên một chiếc thuyền
nhỏ bé mỏng manh cùng với mấy chục người khác thuộc đủ mọi thành phần nam nữ
tuổi tác rồi đã phải nếm trải qua những phút giây cực kỳ kinh hoàng man rợ,
diễn ra bởi bọn cướp biển không còn một chút tính người. Chúng hung hăng lục
soát chiếc thuyền không chừa một ly tấc, để vơ vét tiền bạc nữ trang của tất cả
những người đi trên tàu. Dã man và đau lòng nhất là thủ đoạn lang thú hoang dâm
của chúng dành cho những thuyền nhân đàn bà con gái. Chúng thay phiên nhau hành
hạ thân xác những cô gái trẻ tuổi có chút ít nhan sắc đến nỗi, trong số những
phụ nữ kém may mắn này có một thiếu nữ tuổi ngoài hai mươi với khuôn mặt đẹp
như trăng rằm, khiến cho Đức không thể giữ cho lòng không rung động và thầm yêu
cô ngay từ phút đầu tiên khi anh vừa chạm mặt trên con thuyền định mệnh. Sau
này, Đức được biết tên cô gái vượt biên mang dáng dấp quý phái và sắc đẹp tuyệt
trần đó là Trâm, con gái của một nhân vật dân sự nổi tiếng thuộc chế độ cộng
hòa.
Mười sáu năm về trước, chiếc thuyền nhỏ bé
có sự hiện diện của Đức và cô gái đẹp tên Trâm đã thoát được mạng lưới canh gác
nghiêm ngặt của công an ven biển, ra được đến hải phận quốc tế sau ba ngày rời
khỏi “bãi đáp” từ một eo biển hoang vắng thuộc thị xã Vũng Tàu. Lúc bấy giờ,
thời tiết đang vào giữa tháng tư trời êm sóng lặng mà bỗng nhiên biển cả hậm
hực chuyển mình. Từng đám mây nặng nề đột nhiên phủ kín bầu trời không còn
vương một tia nắng nhẹ. Mặt biển và không gian mênh mông thoáng chốc chìm đắm
trong một thế giới tăm tối mịt mù. Những cơn sóng dữ bắt đầu chuyển động rung
chuyển cuồng nộ, thét gào và xô đẩy con thuyền xấu số, có lúc nằm lơ lửng chênh
vênh trên đầu ngọn sóng, có lúc bị vùi dập chìm sâu giữa hai vách tường nước
đen ngòm. Gió phũ phàng thổi tới từng chập lắc lư, tạt từng đợt nước mưa xối xả
lạnh căm lên thân xác những con người vượt chết đi tìm tự do.
Cơn giông bã thịnh nộ đến xế trưa mới chịu
nhẹ dần. Biển bắt đầu dịu lại, hiện ra dưới bầu trời loang loáng ánh tà dương,
cũng là lúc động cơ ba ngựa của con thuyền nhỏ không còn có thể hoạt động thêm
được nữa vì số lượng dầu chứa trong gần hai chục chiếc bình bằng nylon đã bị
sóng đánh văng ra trên mặt biển từ lúc nào. Những “can” đựng nước ngọt dự trữ
cũng cùng chung một số phận. Con thuyền nhỏ bé bấy giờ chỉ còn có cách để cho
thả trôi lênh đênh trên triền sóng, không biết số phận rồi sẽ ra sao. Thời gian
kéo dài đến gần giữa khuya thì đột nhiên, trong đêm đen mênh mông u tối, gió
rít lạnh người, bỗng hiện ra những ánh neon dập dềnh khi mờ khi tỏ bồng bềnh ẩn
hiện theo từng đợt sóng nhẹ lắc lư.
Thoáng chốc những ánh đèn đó từ từ tiến
lại thật gần, thật gần cho đến khi mọi người trên chiếc thuyền tỵ nạn khốn khổ
nghe thật rõ những âm thanh man rợ của những tên quỷ dữ đội lốt người đang đắc
chí nhảy múa reo hò. Mọi người nhận ra được, đó chính là chiếc tàu sắc dềnh
dàng to lớn của bọn thảo khấu đại dương (cướp biển). Chúng chiếu ngọn đèn sáng
rực xuống chiếc thuyền tỵ nạn, nơi đang lố nhố những con người thất thế tội
tình, tự biết rằng đã sa vào tay của bọn quỉ dữ. Họ vừa la vừa khóc kêu gào
thảm thiết, vừa đọc kinh vừa niệm Phật và xúm nhau cúi lạy bọn thảo khấu như tế
sao. Nhưng chúng dửng dưng chẳng chút quan tâm, đâu cần lưu ý tới những hành
động vô tích sự này. Chiếc tàu sắt ngụy trang dưới dạng tàu săn lưới từ từ cập
sát vào main chiếc thuyền nhỏ mong manh.
Chúng đứng lố nhố quan sát chiếc thuyền tỵ
nạn kỹ càng rồi quăng xuống một chiếc thang dây và bi bô bằng một thứ ngôn ngữ
lạ lẫm không ai trên thuyền có thể hiểu được. Chúng ra hiệu bằng tay cho biết,
tất cả phải rời bỏ chiếc thuyền để leo lean con tàu của chúng cho đến khi thực
sự không còn lại một người nào, chúng mới hạ lệnh cho mọi người tự động chia
thành hai nhóm, một nhóm đàn ông bị đẩy tới đứng ngồi riêng biệt ở một góc sàn
tàu, nhóm còn lại gồm trẻ em, đàn bà con gái bị xô lùa tới một bên, với từng
tràng âm thanh dọa nạt quát tháo đinh tai nhức óc nghe đến rợn người.
Bất thình lình một người đàn ông tỵ nạn
dáng người trông khá vạm vỡ chợt nhìn thấy hành động quá tục tằn bỉ ỏi của một
tên hải tặc diễn ra với một phụ nữ, có lẽ chính là vợ của ông ta, nên ngay tức
thời, ông ta liều lĩnh xấn tới, lao mình vào tên hải tặc, bèn bị ngay tên này
dùng chiếc búa đẽo hắn đang cầm sẵn trên tay bổ ngay một phát lên chính giữa
đỉnh đầu giống như hắn bổ một trái dừa, khiến cho người đàn ông gục xuống chết
tốt không kịp một lời kêu la trăn trối, chiếc đầu của ông ta bị chẻ làm đôi,
máu và óc phun ra tung tóe khắp nơi trông đến rợn người.
Thảm cảnh đó diễn ra chưa đầy một phút
cũng đủ khiến cho tất cả mọi người bỗng nhiên biến thành những xác thân co rúm
tê liệt, không ai còn giữ được chút khả năng chống đối, ngoài những tia mắt cực
độ bàng hoàng cùng những tiếng la hét thất thanh hỗ độn. Chúng bắt đầu bộc lộ
trắng trợn thú tánh của lũ người súc sanh tội lỗi, ngang nhiên biểu diễn những
hình ảnh hành hạ thân xác của những thiếu nữ, đàn bà. Lẽ tự nhiên, người con
gái đẹp tên Trâm mà Đức đã thầm đem lòng yêu thương ước vọng từ mấy ngày qua
cũng không thoát khỏi bọn hải tặc dã man khát tình. Nhất là cô lại là một người
nhan sắc có sức thu hút mãnh liệt nhất trong số những nữ thuyền nhân này, cho
nên cô thật khó tránh khỏi gánh chịu một hậu quả thê thảm hơn tất cả mọi
người.
Phần Trâm, ngay từ phút giây thứ nhất khi
cô nhận biết đã lọt vào tay của lũ cướp biển man rợ, đến khi bị tên hải tặc
biểu lộ nhiều quyền uy nhất, dáng chừng hắn là kẻ chỉ huy, tiến đến lôi phắt cô
ra một chỗ trống trên sàn tàu để bắt đầu dở trò tồi bại, cô đã tự biết mình sẽ
bị tên lang sói mọi rợ này sẽ dập dùi thân xác của mình. Cô bàng hoàng kinh sợ,
miệng khấn nguyện liên hồi, trong khi đôi cánh tay yếu đuối cố sức vùng vẫy
chống cự nhưng không đưa đến một kết quả nào, đôi mắt của cô hướng về phía đám
đàn ông tỵ nạn, giờ như một đám người vô dụng như van nài một sự ra tay cứu
vớt, nhất là nơi đám người đó, có một chàng thanh niêng mà cô cũng rất có cảm
tình. Trong giây phút tuyệt vọng tận cùng không còn có thể trông cậy vào phép
lạ nào có thể cứu độ cho cô thoát khỏi nhục hình trước tên hải tặc, cùng với
giác quan bén nhạy của một người con gái, một mặt cô thành tâm khấn nguyện, sám
hối và tụng niệm các bài kinh cứu khổ cứu nạn, khẩn cầu đức Quan Thế Âm Bồ Tát
nhủ lòng từ bi hỉ xả ra tay cứu vớt, một mặt cô đã nhận thức được cảm tình của
người thanh niên đi chung thuyền mà cô mường tượng được rằng người thanh niên
này đã dành cho cô những tình cảm rất chân thành sâu đậm giữa hai người khác
phái. Cô hướng tầm mắt van nài về phía người thanh niên tên Đức, lúc bấy giờ
cũng chỉ biết lặng yên thúc thủ, ngồi co ro khúm núm như một con chuột nhắt
trước đám mèo rừng đầy nanh vuốt, anh ta trố mắt ra nhìn mà không dám chứng tỏ
thái độ phản kháng nào dù thật nhỏ nhoi khiêm tốn. Còn về những ý nghĩ ăn năn
sám hối, cầu trời khẩn Phật của Trâm, tuyệt nhiên chỉ như những lời kinh tan
vào thinh không vô vọng.
Cuối cùng, việc đen tối phải đến đã đến,
cô bị tên hải tặc vật ra hành hạ một cách tàn bạo không chút gượng nhẹ xót
thương. Sau khi thỏa mãn thú tính chán chê, một tên khác tiếp tục lao vào, rồi
lại một tên khác nữa cũng hăm hở dày vò thân xác của cô lúc bấy giờ đã trở nên
quá đỗi bầm dập và đau đớn cho đến khi, cô không còn sức chịu đựng thêm những
cực hình nhục thể, thì linh hồn cô đành lìa khỏi xác, trút hơi thở cuối cùng
trong màn đem đen hoang lạnh, văng vẳng bao nhiêu tiếng người gào thét khóc
than.
Trước khi vĩnh viễn lìa trần, Trâm - tên
người con gái vắn số - không quên để lại một tia nhìn tuy yếu ớt song tràn đầy
oán hận về phía người thanh niên tên Đức khiến cho anh ta luôn luôn bị ám ảnh
triền miên mãi cho đến suốt những năm tháng sau này.
Sau khi hả hê cướp bóc, giết chóc dã man
và hãm hại những người tỵ nạn xa cơ vô tội, bọn cướp biển xua đuổi những người
còn sống sót sau cơn kinh hoàng trở lại con thuyền nhỏ của họ và ném theo cho
vài “can” dầu cùng một ít lương khô vặt vãnh, chúng quay mũi tàu phóng đi mất
hút trong lòng biển đêm đầy gió lộng.
Ít ngày sau, chiếc thuyền nhỏ bé như chiếc
lá lênh đênh của đám người vượt chết ra đi tìm tự do may mắn trôi dạt đến được
một dàn khoan dầu, họ được tiếp cứu và được đưa tới một trạm tiếp nhận thuộc
phía bắc quần đảo Mã Lai. Khoảng một năm sau, đám người này được phân tán nhận
cho đi định cư tại các quốc gia đệ tam. Riêng người thanh niên tên Đức được một
cơ sở thiện nguyện Hoa Kỳ nhận cho anh vào Mỹ.
Bước chân lưu lạc của Đức nổi trôi theo
dòng đời. Anh sớm ý thức được thân phận đơn lẻ của mình nơi xứ lạ quê người, tứ
cố vô thân, không một ai là bà con ruột thịt. Đức vùi đầu vào việc trau dồi anh
ngữ cho đến khi chấm dứt thời hạn thụ hưởng trợ cấp xã hội thì anh cũng vừa vặn
học xong nghề điện tử, kiếm được công ăn việc làm với đồng lương khiêm tốn,
thăng tiến dần theo năm tháng. Nhờ vậy, Đức đã sớm ổn định được cuộc sống cá
nhân, lại có dư điều kiện để viện trợ kinh tế đều đặn cho gia đình còn ở lại
quê nhà.
Những tưởng cuộc đời thường nhật của một
thanh niên tỵ nạn mẫu mực như Đức được vậy kể cũng đã tạm yên nếu thỉnh thoảng
anh không bị nỗi ám ảnh kinh hoàng về tấn bi kịch hải tặc diễn ra trên biển
đông năm nào với đôi mắt lạc thần van lơn của người con gái tên Trâm cùng cái
chết thảm thiết đau lòng, khiến anh không thể nào nguôi ngoai quên lãng. Luôn
luôn Đức cảm thấy vô cùng khiếp sợ bối rối cộng thêm niềm tiếc hận mỗi khi
mường tượng lại từng chi tiết trong thảm kịch này. Nhất là ánh mắt đáng thương
đầy tuyệt vọng van nài của cô gái đẹp đẽ năm xưa, dường như có một ma lực huyền
bí nào đó vẫn cố tình đeo đuổi, ám ảnh và trách cứ trong tâm tư hằng
ngày.
Đã bao điêm từ khi được rời đảo định cư
tại xứ này, Đức chập chờn thao thức hoặc choàng tỉnh giấc sau những cơn ác mộng
nặng nề với hình ảnh bi thương quằn quại của người con gái khốn khổ trong đôi
tay hoang dại của bầy cướp biển hung bạo cùng với ánh mắt kinh hoàng lạc thần
của Trâm đến nỗi, anh có cảm tưởng nàng đang lẩn khuất đâu đây, và chừng như
nàng vẫn bám sát theo anh đêm ngày và thường xuất hiện trong anh với những giấc
mơ đầy kinh dị, không thể nào tẩy xóa và có thể quên đi trong đời, cho đến một
ngày, giống như một người thua cuộc, Đức không còn đủ nghị lực để duy trì sự
bình yên sáng suốt trong tâm não. Anh cảm nhận như thấy có niềm hối hận vô bờ,
tâm tu anh mỗi ngày một thêm hoang mang ray rứt và ý thức rõ ràng anh thật đáng
tội ươn hèn trước khổ nạn của những đồng bào ruột thịt và của người con gái tên
Trâm. Nhưng giờ đây, anh không biết phải làm gì để xua tan nỗi niềm ăn năn tiếc
hận của một người thanh niên không chu toàn nghĩa khí đàn ông trước thảm cảnh
bi thương.
Đức hay ngao ngán thở dài, anh lắc đầu xua
đuổi những ý nghĩ đen tối quấy nhiễu tâm thức của anh và thường đổ vấy cho số
phận đã an bài, rồi âm thầm cầu nguyện cho oan hồn người con gái đẹp mà anh vẫn
còn thầm yêu trộm nhớ đã bị uổng tử năm xưa để nàng được sớm siêu thăng tịnh độ
trong cõi ta bà.
Nhưng sau cùng, tự nhiên Đức trở nên một
người không còn lý trí. Mọi sinh hoạt của anh trở nên xáo trộn bê trễ rồi anh
tự ý bỏ ngang công việc đang làm, đi lang thang như người hàng khất, miệng lảm
nhảm những lời lẽ vô nghĩa không đâu. Tia mắt của anh dại đi như kẻ mất hồn.
Khốn thay! Anh lại không có lấy một người thân thiết để mà nhắc nhở hoặc chạy
thày chạy thuốc cho anh, săn sóc giúp đỡ anh có được những bữa cơn độ nhật qua
ngày. Tình trạng đó diễ tiễn mỗi ngày một thêm trầm trọng, Đức đói khát triền
miên rồi dần dần mất hết trí khôn. Thân thể của anh sa sút não nề, không còn
giữ được chút phong độ khi xưa, sắc khí anh trở nên xanh xao ốm yếu lạ thường.
Quần áo tóc tai anh bờm sờm rách rưới tả tơi và hôi hám đến lợm người, không ai
chịu nổi mùi xú uế thoát ra từ áo quần thân thể của anh. Đức thường lom khom
lầm lũi bước những bước chân chuệnh choạng yếu ớt lê lết đến những ngõ ngách
vắng người và tìm đến nơi có những thùng chứa rác để bươi móc tìm tòi miếng ăn.
Gặp được bất cứ cái gì có thể nhai được trong miệng là anh vơ lấy ăn nghiến
ngấu không còn biết phân biệt được sạnh dơ hay thúi rữa ghê hồn.
Nhiều người cảm thấy rất bất nhẫn khi tình
cờ chứng kiến một kẻ đồng hương dở ngây dở dại, lem luốc dơ bẩn, đáng thương
như Đức lê la lam lũ ở lề đường khiến họ động mối từ tâm, cố gắng bịt mũi nín
thở tiến lại bên anh để ủy lạo, cho tiền hoặc cho phẩm vật thức ăn và ân cần
hỏi han tương trợ. Nhưng đối với Đức, anh đâu còn lý trí sáng suốt để phân biệt
phải quấy ra sao, tâm thức anh dường như đang chịu sự chi phối nặng nề của một
kẻ vô hình nào đó chứ không còn thật tính người, anh cũng chẳng còn có thể nhận
biết được điều gì, chẳng còn nghe và hiểu được những lời chuyện trò mọi người
thăm hỏi. Ngày lại ngày, anh vẫn lầm lũi chân thấp chân cao bước tới những chỗ
có rác rến để tìm ăn uống những phế vật hôi hám dư thừa.
May sao có người đồng hương nhận ra được
tình trạng đáng thương và khác lạ nơi anh. Ông ta vội vã đưa Đức đến một ngôi
đền, nơi đang có các vị pháp sư cao minh hành đạo, các vị này trong bao nhiêu
năm tạm dung tên đất Mỹ, từng khiển dụng âm lực cao cường để làm việc phước đức
hoặc thực hành các bí pháp chân truyền nhằm hòa giải những xung đột, bất mãn,
nợ nần oan khiên giữa hai miền âm dương cách biệt và chế ngự các tà ma hung
hăng ác nghiệt để cứu nhân độ thế.
Đến ngôi đền, mặc cho người đồng hương xô
đẩy trì kéo, oan hồn cô Trâm trong Đức khăng khăng không chịu bước vào, cho đến
khi nhiều người hợp sức lại khiêng anh vào nội thất tôn nghiêm trước bàn thờ
khói hương nghi ngút thì bỗng nhiên, Đức tỉnh táo được phần nào. Tuy vậy, anh
trừng mắt láo liên nhìn ngó quanh quẩn, thái độ đầy cao ngạo ngang bướng. Họ cố
đẩy anh đến trước bàn thờ, thay vì cung kính nghiêm trang đảnh lễ; trái lại,
bằng một thái độ cố tình ngang nhiên trịch thượng, Đức ngã vật ra giữa nền nhà,
tay chân quơ cào lại đả, miệng lảm nhảm la lối huyên thuyên...
Thốt nhiên, các vị đạo gia thuộc đủ mọi
cấp độ hành đạo ở ngôi đền này, thần nhãn cao thâm, đạt tới mức công năng
chuyên cần tu tập, nhận biết ngay Đức mắc phải tình trạng nan giải do một vong
hồn nào đó đang hoành hành, lưu trú. Vị pháp sư chủ trì ban rải tâm từ bi đưa
mắt hướng nhìn về nơi Đức đang ngạo nghễ nằm với thái độ bất mãn đầy gây
hấn.
Không cần tìm hiểu sâu xa, thoạt trông
thấy dáng điệu và khí sắc bất thường của người thanh niên, ông đã thừa kinh
nghiệm để thấu suốt anh ta đang mắc phải căn bệnh tà, ông dụng thần lực bắt ấn,
chuyển đạt sức mạnh vô hình nhằm trói thúc tứ chi của hồn ma trong thân xác của
Đức, mục đích chỉ để chế ngự thái độ hung hăng, khiến cho anh phải nằm co quắt
rên la và như không thể tiếp tục chịu đựng thêm sự đau đớn càng lúc càng xiết
lại như một cực hình, Đức vật vã gào lên như đang chịu một hình phạt kinh hồn,
anh van xin cởi trói. Lúc bấy giờ vị pháp sư chủ trì mới ôn tồn nói chuyện với
anh:
- Thì ra... “cô” cũng biết đau đớn như mọi
người! Tại sao đứng trước bàn thờ tôn nghiêm mà “cô” không chịu cúi đầu đảnh
lễ? Vì sao “cô” tỏ ra quá hỗn hào? “Cô” có biết đó là hành động vô phép và rất
thất lễ đối với các đấng bề trên đã khiến cô phải chịu sự trừng phạt? Sự trói
buộc và nỗi đau đớn nãy giờ thật ra chưa phải là hình phạt duy nhất, thiêng
liêng mới chỉ tạm chế ngự thái độ hung hăng vô lễ để giúp cho “cô” lấy lại tâm
trí tỉnh táo yên bình...
Lúc đó, những tín hữu thường đến ngôi đền
này để đọc kinh lễ Phật, hiện diện khá đông đảo, nghe vị pháp sư soi rõ tường
tận và nói đúng chân tướng hồn ma đang trú ngụ trong thân xác và đang khống chế
tinh thần của người thanh niên tên Đức, họ cảm thấy thất kinh hồn vía, vội đứng
nhích ra xa quan sát.
Ngừng nói trong giây lát như có ý dành
thời gian để cho “cô” ma nữ lấy lại bình tĩnh cố hữu, vị pháp sư mới ôn tồn đưa
ra một đề nghị:
- Bây giờ nếu “cô chịu hứa lễ Phật và
nghiêm trang nói chuyện, ta sẽ thỉnh ý chư thần xin mở trói cho cô, để cô được
thoải mái tự do như lúc thường! Cô bằng lòng chứ?
Vong linh người con gái tên Trâm chiếm ngụ
trong thân xác của Đức bấy giờ mới chịu nhìn nhận chân tướng và khuất phục
trước oai lực vô biên của thiêng liêng qua trung gian huyền bí của vị pháp sư.
Chân tay của cô ta vừa thoát khỏi những dây nhợ trói buộc đớn đau, quấn quít vô
hình. Cô đã nhận được huyền lực, lấy lại tự do cho thân thể. Cô đứng dậy nghiêm
trang lễ Phật, thái độ tỏ ra từ tốn khoan hòa. Đợi cho hồn ma nữ thi hành xong
mọi nghi thức, vị pháp sư bắt đầu hỏi chuyện:
- “Cô” cho ta biết, vì lẽ gì cô không chịu
lễ Phật, còn tỏ ra thái độ hung hăng quá khích? Hồn ma nữ (ngụ trong xác thân
của Đức) ngước đôi mắt đáng thương chứa đựng giận hờn nhìn pháp sư. Cô nghiện
ngào cho biết:
- Ông không hiểu tại sao tôi tỏ ra như vậy
cũng đúng! Tôi vốn là một Phật tử thuần thành biết lễ trên kính dưới chứ đâu
phải hạn vô thần ngỗ nghịch như bây giờ, nhưng từ lâu lắm rồi, kể từ sau khi
tôi bị hải tặc hãm hại, mặc dù đã chí thiết khấn xin cứu độ mà vẫn bị làm ngơ,
trong tâm tư tôi tuyệt nhiên không còn chỗ cho thần linh ngự trị, tiêu tán tất
cả mọi niềm tin. Ông biết được tại sao rồi chứ?
Nhìn thái độ còn chất chứa bao nhiêu thống
trách dỗi hờn sâu kín tiềm ẩn trong lòng ma nữ, vị pháp sư chậm rãi nói một
cách hiền hòa:
- Đó! Nếu cô không chịu bày tỏ thì không
ai có dư thời giờ để có thể biết cô đã phải trải qua những hoàn cảnh rủ ro như
thế nào. Hôm nay, chắc chắn nhờ có duyên cơ phước đức, cô đã đến được nơi đây,
xem như những tâm sự uẩn khúc của cô sẽ được mọi người chia xẻ và hóa giải hoàn
toàn. Trong cương vị của kẻ làm việc đạo, nếu muốn, chúng tôi có thể dễ dàng
tìm hiểu được ngọn nguồn câu chuyện cùng những tai nạn hạn họa đã xảy ra trong
quá trình bức tử của cô.
Nhưng trước khi chúng tôi thỉnh nguyện ơn
trên từ bi cứu độ cho cô trở về với sự bình an nguyên thủy, chúng tôi muốn
chính cô nói ra lý do tại sao không giữ lấy đức tin tối cần thiết và sự sùng
kính của con người dương thế lẫn những hồn oan đối với các đấng hiển
linh?
Giọng nói của pháp sư hàm xúc âm điệu dịu
ngọt như an ủi dỗ dành, đã tác động xâu xa trong tâm hồn ma nữ, “cô” bắt đầu kể
lại nguồn cơn mất hẳn đức tin, đôi khi cô tinh nghịch biến hóa hiền tượng Phật
Bà Thánh Nữ, hiện ra để treu ghẹo đánh đập phá phách người thanh niên, để cho
anh ta cũng nóng giận, mất hẳn đức tin, đâm ra ngang ngược vô lễ với các vị
thánh thần. Cô tự chối bỏ đức tin, đồng thời đem thái độ ngang nhiên vô phép ra
hành xử trước dung nhan Thượng Đế. Cô kể bằng giọng nức nở nghẹn ngào:
-... Lúc bấy giờ chỉ còn hoàn toàn trông
cậy và đức Quan Thế Âm Bồ Tát và niệm bài kinh cứu khổ cứu nạn như thời thơ ấu
mẹ tôi thường dạy tôi nên làm như vậy mỗi khi đối diện với những nguy nan, cũng
như trước ngày vượt biên, nhiều người thân nhắc nhở cho tôi biết quyền năng
linh hiển thường hay ra tay cứu vớt những người vượt biển gặp khổ nạn của Phật
Bà và chí thành tụng niệm khi giáp mặt với những nan nguy sẽ được tai qua nạn
khỏi.
Tôi giữ nhân đức tin và tha thiết kêu xin
với lòng thành tâm khấn nguyện cho tai họa xảy đến cho tôi lúc ở trên tàu sớm
chấm dứt để khỏi phải chịu thêm những đau đớn khổ hình trước sức dày vò điên
loạn của những tên hải tặc man ri đầy thú tính. Nhưng Phật Trời yên lặng làm
ngơ không ra tay cứu vớt để cho tôi, sau đó tôi phải chết thảm, linh hồn tôi bị
sa vào thế giới hoang vu đói khổ trăm bề, không trông đợi được bất cứ sự lợi
ích nào và mãi kéo dài kiếp đọa đày của loài hồn lang thang đói lạnh. Thử hỏi,
tôi còn điều gì để tin tưởng được nữa? Như ông đã biết đó! Trong lúc quá đau
đớn kinh hoàng, cầu xin thiêng liêng, thiêng liêng không đoái tưởng linh ứng,
tôi quay lại cầu cứu với cả “thằng này”.
Cô ta hằn hộc đưa tay chỉ vào ngực của
người thanh niên đang bị hồn cô chiếm ngự hoành hành, hậm hực nói tiếp:
- Phải! Chính “thằng này”. Tôi biết nó yêu
tôi tha thiết. Bù lại, tôi cũng có cảm tình với nó từ khi mới chạm mặt nhau lần
đầu. Có lúc tôi đã mơ mộng sẽ có một lần nào đó sau khi đến được bến bờ tự do,
tôi sẽ ngỏ cho “nó” biết rằng tôi sẵn sàng đón nhận tình yêu, nếu “nó” dám mở
lời tỏ tình.
Lúc gặp nạn ở trên tàu, sau những khẩn cầu
tha thiết, đọc những bài kinh vô vọng, tôi nhìn về phía “nó” gào thét lên để
mong đợi nó có chút động tâm, hay là can đảm đứng lên cứu tôi ra khỏi những tên
hải tặc điên cuồng rồi nếu chẳng may có chết, hai đứa cũng được chết chung cho
trọn chữ tình. Ngờ đâu nó còn hèn hạ hơn tất cả những kẻ hèn hạ nhất! Nó co rúm
người lại, thu mình ngồi khúm núm dương mắt ra nhìn. Thử hỏi, có ai hiểu được
cực hình và niềm tuyệt vọng của tôi đang trông chờ nơi “nó”. “Nó” vẫn lặng
thinh cho đến khi tôi lim đi và khốn khổ trút linh hồn ra khỏi xác thân cực kỳ
đau đớn trong lúc thằng hải tặc vẫn chưa muốn buông tha.
Vì thế, sau khi trút linh hồn, tôi có ngay
quyết định nhất định phải trừng trị “thằng này” và những đứa đã khiến cho đời
tôi trở nên bẽ bàng tan nát. Thật ra, sau khi tôi chết thảm, tôi cũng đã trả
thù được hai trong ba thằng hải tặc đã thay phiên nhau cưỡng bức tôi đến chết.
Một đứa tôi đã “khiến” nó chế thảm khốc vì đụng xe, một đứa làm ăn khánh kiệt
thua lỗ đến phải thắt cổ tự vận, còn lại một thằng cũng sắp sửa đền tội. Riêng “thằng
này” - cô ta chỉ vào Đức - tôi cũng sẽ hành hạ nó cho đến ngày thân tàn ma dại
chứ lẽ đâu lại để cho nó được an nhiên vui sống, lấy vợ đẹp đẻ con ngoan, hưởng
thụ một đời hạnh phúc chẳng chút công bằng, trong khi tôi vẫn phải kéo lê bước
phiêu bạt của một hồn mà oan trái vất vưởng đói rách lam lũ khắp nơi trong cõi
vô hình...
Vị pháp sư và những người hiện diện chung
quanh tỏ ra rất cảm thương cho số phận không may của hồn ma nữ tên Trâm đang
rành mạch kể ra hết tâm sự u uẩn của mình. Đợi cho nỗi ngậm ngùi trong lòng cô
gái đầy tội nghiệp lắng xuống, vị pháp sư nhìn cô thương xót, và bày tỏ những
cảm nghĩ của ông vừa thoáng hiện trong đầu:
- Cô trả thù và hành hạ người ta như vậy
đã quá đủ rồi! Thôi, cô hãy tha cho người ta, nên đem ân báo oán để hồi hướng
công đức cho chính mệnh nghiệp của mình.
Ngừng lại trong giây lát như để cho vong
hồn ma nữ có đủ thời giờ nhận rõ phải quấy, thực hư. Vị pháp sư nhân ái tiếp
lời:
- Ta cần cho cô biết rõ thêm về những điều
siêu linh huyền nhiệm để giúp cho cô dễ dàng xóa tan đi những ý định oán thù
còn chất đầy một lòng sân hận! Ta chắc cô chưa biết được những tên hải tặc đó
là ai? Tại sao chúng trút hết những thảm thương cho cô đến nỗi cô phải chết một
cách quá ư là tội nghiệp oan khiên!
Thật ra, chúng là những tiền thân đã bị
chính cô từ kiếp trước vốn là một phú hộ giàu có, thường hay ỷ thế hiếp cô,
dùng quyền lực bạc tiền mua chuộc và hưởng thụ xác thân trinh tiết những người
con gái trẻ tuổi con nhà nghèo rồi nhẫn tâm bỏ rơi để họ phải gánh chịu một đời
lầm thanh khốn khổ, có người còn bị chết oan uổng vì đã dám cả gan cưỡng chống
lại những dục vọng đen tối của tay phú hộ kiếp xưa.
Nay theo định luật quả báo luân hồi, chúng
được cho tái sinh làm lại kiếp người để đòi các món nợ cũ theo ý chỉ của đấng
toàn năng, chúng được phép thi hành nghiệp nhân quả, đợi chờ cơ hội để bắt cô
phải đền trả nghiệp ác đã gây ra lúc sinh thời. Chúng ra tay tàn nhẫn hãm hại
cô trên biển đông chẳng qua là những tiền nghiệp vướng mắc nợ nần mà cô đã tạo
ra từ kiếp trước.
Và trong lúc thập tử nhất sinh đó, cô cũng
đã khẩn khoản van xin ơn cứu độ của bề trên, nhưng vì hạnh nghiệp của cô xấu xa
phải trả, đấng toàn năng đã làm ngơ cho đám quỷ dữ hoành hành, ra tay hãm hại
để đòi cô trả nợ cũ thì lẽ đương nhiên, sự van xin khẩn thiết của cô không được
thiêng liêng đoái nhậm là đúng lắm rồi, còn kêu ca thống trách vào đâu cho
được.
Thật ra, đối với qui luật thuộc thế giới
vô hình rất minh bạch và vô cùng chặt chẽ, chứ không mơ hồ hoặc giốn như con
người thường quan niệm sai lạc về những vong hồn thuộc thế giới siêu linh được
tự do hiện ra quấy phá. Nếu không có đấng toàn năng cho phép phù trợ thì không
thể có bất kỳ hồn ma ngạ quỷ nào có thể khuấy động được con người, nhất là
những người đạo cao đức trọng và sự bình yên trên dương thế. Cô không nên nhân
cớ đó mà tạo thêm vô vàn những khổ nghiệp chập chùng, e mãi mãi chìm đắm trong
vòng quay của bánh xe luân hồi quả báo. Chỉ nên đem ân đền oán thì nghiệp lực
mới mong được giải trừ an nhiên, cứu rỗi.
Giờ đây, nếu cô muốn, ta có thể giúp cô
soi tìm lại căn nghiệp xa xưa để cho cô thấu rõ được mọi điều, không còn có sự
bán tín bán nghi. Và khi cô đã hiểu tường tận sự huyền nhiệm siêu linh trong
tiến trình nhân quả, cô sẽ không còn lý do mang nặng lòng thù hận, đồng thời,
chúng tôi sẽ cấp phát cho cô một phiếu công đức (công đức có được nhờ vào kết
quả của các công việc hành thiện, tu tập của một hoặc nhiều người trong một
nhóm đạo gia) và sẽ cầu xin ơn cao cả giúp cho cô có thể chọn lựa một trong hai
con đường, hoặc là được nương náu tu tập trong chùa để tái tạo nghiệp tốt, hoặc
là cô sẽ được tái sanh nhận lại kiếp người qua hình thức đầu thai...
Lắng nghe vị pháp sư ôn tồn giải thích,
hồn ma người con gái tỏ ra hiền dịu tin tấn hơn nhiều. Tia nhìn của cô bắt đầu
nhuộm vẻ từ ái, cử chỉ của cô biến đổi trở thành lễ độ khiêm cung. Cô ngồi đó,
lặng yên như đang đắm hồn trong nỗi chiêm nghiệm thâm sâu về những lời nói nhân
ái của vị pháp sư chân chất giải bày.
Sau cùng, cô ngước lên nhìn vị pháp sư
thay đổi cách xưng hô:
- Con không dám ao ước chọn lựa nghiệp tu.
Xin cho con được sớm trở lại đầu thai kiếp người để cho con có cơ hội tìm lại
đời sống an vui trên dương gian hạnh phúc như bao nhiêu người khác!
Vị pháp sư hoan hỉ gật đầu:
- Mặc dù nghiệp lực của cô còn trùng điệp
chất chồng, oan oan tương báo, rất khó mà đạt được sở nguyện tái sanh. Nhưng
với lòng từ bi vô lượng của bề trên, nếu cô thành tâm ăn năn sám hối và hứa sẽ
không bao giờ tái phạm những điều chẳng lành, chúng tôi sẽ cấp tặng cho cô một
phiếu công đức- giống như việc góp vốn đầu tư - để cho sở nguyện của cô sớm
được viên thành. Nếu cô bằng lòng với những điều như vậy và mau mau thoát ra
khỏi thân xác của người thanh niên tội nghiệp này để cho anh ta trở lại đời
sống bình an vô sự, thì mọi việc sẽ được nghiêm chỉnh tiến hành. Cô nghĩ
sao?
Vong linh cô gái tên Trâm sung sướng gật
đầu. Cô cúi đầu tiếp nhận phiếu công đức. Sau đó không lâu, cô trả lại trạng
thái bình thường cho người thanh niên tên Đức. Tất cả mọi người chứng kiến đều
cảm thấy nhẹ nhõm hân hoan vì biết rằng, kể từ giây phút này, hồn oan cô gái đã
không nhập xác để tiếp tục hành hạ người thanh niên tên Đức, khiến cho thân xác
anh ta héo mòn, khiến anh ta hàng ngày phải tìm kiếm ăn uống những đồ dư thừa phế
thải ở các thùng rác. Nhất là, đối với vong linh cô gái, từ nay sẽ được đền bù
và chờ ngày tái sanh đầu thai kiếp khác.
Về phần Đức, người thanh niên bị ma nhập,
ngay khi đó bỗng tỉnh táo hoàn toàn. Anh có thái độ ngẩn ngơ như vừa trải qua
một giấc chiêm bao đầy mộng dữ với vóc dáng, thân thể gầy còm hôi hám đến lợm
người.
Chờ cho Đức thật sự hoàn hồn, những người
có mặt ở ngôi đền đem cho anh thức ăn, hoa quả và nước uống. Đức ăn ngấu nghiến
ngon lành và ra chiều muốn lạy Phật để tạ lễ. Mọi người như đoán biết Đức muốn
gì, một người lên tiếng:
- Anh nên tự ý sắm sửa hoa quả nhang đèn
cho việc cử hành lễ tạ để biểu lộ tấm lòng thành kính tri ân. Thật ra, chúng
tôi có thể giúp anh có thêm tiền bạc để thực hiện lễ tạ Ơn tươm tất, nhưng điều
đó không thực sự tối cần. Điều cần thiết chính là tấm lòng thành khẩn do chính
anh tỏ bày. Vậy anh hãy thực hành ngay đi.
Vốn bị mất việc làm đã lâu, lại sống lang
thang đầu đừng xó chợ, ăn uống dơ bẩn khác thường, tuy thỉnh thoảng vẫn có
người động tâm cho tiền bố thí. Đức lục hết túi quần áo, gom góp khắp nơi cũng
chỉ vỏn vẹn có mười đồng bạc. Anh định tâm dùng hết chẳng ngại ngùng gì, nhưng
sau khi mua sắm đầy đủ nào hoa quả nào nhang đèn cũng chỉ tốn vỏn vẹn chín đồng
bạc. Không biết do động cơ nào thúc đẩy, Đức đem một đô la còn lại để mua một
tấm vé số, cạo ra anh lại trúng được đúng $ 10.00, xem như anh đã chẳng mất
đồng nào cho việc mua hoa quả nhang đèn tạ lễ vốn chỉ thuần túy mang ý nghĩa
của sự bày tỏ chân tâm.
Vài tháng trời sau đó, nhờ lòng tốt bụng
của những người đồng hương, có người đưa hẳn anh về nhà, giúp cho anh hàng ngày
có miếng ăn chỗ ở tươm tất, Đức dần dần bình phục, sức khỏe cùng sắc diện của
anh ngày thêm hồng hào mạnh mẽ. Nhưng để giải quyết đời sống hàng ngày trước
khi xin được việc làm mới, anh làm đơn xin hưởng tiền trợ cấp tàn phế về bệnh
thần kinh...
Thời gian sau này, anh đã tìm lại được đầy
đủ phong độ năm xưa, lại còn may mắn kiếm được công ăn việc làm với tiền lương
vừa khấm khá vừa nhàn hạ, rồi tự mình ổn định được cuộc sống với miếng ăn chỗ ở
riêng tư sung túc, xem ra rất khá giả bình thường. Rồi nhờ có diện mạo nhân
dáng dễ coi, lại thêm phong cách chân chất thật thà. Chẳng bao lâu, một cô gái
trẻ tuổi xinh đẹp mặn mà có đôi mắt long lanh to tròn với dung nhan nhân hậu, làm
việc cùng sở với anh, đem lòng yêu thương Đức, anh đón nhận tình yêu bằng tất
cả chân tình của trái tim ngập tràn rung động và cuồng nhiệt ở một thanh niên
tươi trẻ yêu đời. Một năm sau, Đức cùng người con gái yêu anh cử hành hôn lễ
trong bối cảnh vui vẻ với rất đông bạn bè quen biết cùng với tất cả những ân
nhân cả đạo cả đời, những người đã từng có một tấm lòng đầy bao dung thân ái,
đạo hạnh vị tha, đã từng quan tâm săn sóc, giúp đỡ anh trở lại ánh sáng hạnh
phúc của một đời sống đầy ắp niềm tin với sắc hồng
________________________________________
Đồng Tâm Hội
__________________
Người chân chính tu đạo không thấy lỗi của
thế gian.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét
Xin thường niệm A Di Đà Phật