Dẹp Bỏ Tánh Nóng Giận
Viết bởi Tuệ Dũng
Tham và sân là hai mặt của một đồng tiền. Vì u minh, ta sinh tâm phân biệt, bám víu thứ này, xua đuổi thứ kia. Khi không có được thứ ta muốn, hoặc bị người khác cản trở ta đạt được mục đích của mình, hoặc sự việc xảy ra không theo ý ta muốn, thì ta sinh lòng sân hận, giận dữ, oán thù. Phản ứng bằng những thái độ đó không đem lại lợi ích gì. Chúng chỉ đem lại tai hại. Vì tham, sân và si, ba thứ độc của tâm, ta không ngừng tạo ra nghiệp chướng, phiền não.Không có gì độc hại hơn là lòng sân hận, vì bản chất của nó là phá hoại. Nó là kẻ thù của ta. Không có thứ hạnh phúc nào có thể đển từ lòng sân hận, vì bản chất tiêu cực của nó.
Giận dữ và tranh chấp có thể đưa đến bạo động. Khi bị xúc phạm, phần đông chúng ta cảm thấy phải ăn thua, trả đũa lại cho bằng được. Đó là phản ứng tự nhiên của con người. “Nếu ai thô lỗ với tôi, tôi sẽ đáp lại bằng sự cộc cằn. Nếu ai đánh tôi, tôi sẽ đánh trả lại cho công bằng”. Hay hơn thế nữa, “Nó là kẻ thù của tôi, nếu giết được nó, tôi mới vừa lòng!”.
Chúng ta không nhận ra rằng khi ta có khuynh hướng nóng nảy, hay gây thù chuốc oán, thì kẻ thù hình như có mặt ở khắp mọi nơi. Càng ngày ta càng thấy khó thân thiện với một ai, và dễ ghét mọi người. Người ta bắt đầu tránh mặt chúng ta, khiến ta càng thêm lẻ loi, cô độc. Khi nóng giận, đôi khi ta tuôn ra những lời thậm tệ, chửi rủa người khác.
Người Tây Tạng có câu, “Lời nói không mang gươm giáo, nhưng có thể làm thương tổn trái tim”. Lời nói của ta đôi khi rất nguy hiểm, không những vì chúng có thể làm tổn thương người khác, mà còn khích động sự nóng giận trong ta thêm lên. Thông thường chúng ta hay đi trong vòng luẩn quẩn: người này cảm thấy không vừa lòng với người kia, nên thốt lên những lời gây đụng chạm; người kia bèn phản ứng lại cũng bằng những lời không tử tế. Thế là cả hai bắt đầu nóng lên và một cuộc khẩu chiến lại xảy ra. Trong một quốc gia hay nhiều quốc gia trên thế giới cũng thế. Cũng có nhóm này gây hấn với phe phái kia, quốc gia này gây chiến với quốc gia khác.
Khi bạn để sự nóng nảy, giận dữ làm chủ mình, thì cũng giống như khi bạn muốn thủ tiêu ai đó bằng cách vứt họ xuống sông, nhưng hai tay bạn lại ôm chặt lấy họ, như thế thì cuối cùng cả hai đều chìm. Nghĩa là khi bạn muốn tiêu diệt kẻ thù của mình, thì bạn cũng đang tự hủy diệt mình.
Tốt hơn hết là nên dập tắt nhúm lửa sân trước khi nó kịp phát thành một đám cháy, bằng thái độ bình tĩnh. Khi hiểu rõ trách nhiệm của mình với bản thân, ta sẽ dễ hành động như thế hơn. Khi gặp phải một người đối với ta không tốt, làm ta bực bội, ta thường coi như thể tự nhiên họ hành động, ứng xử như thế. Ta đâu biết rằng có thể trong những kiếp trước đó, ta đã nói lời thô lỗ với họ, đánh mắng họ, hay có những tư tưởng thù oán họ. Do đó thay vì đổ lỗi người khác, trách móc hoàn cảnh hay con người làm ta phiền não, ta phải đối mặt với kẻ thù thật sự của ta. Kẻ thù mà, trước mắt làm cho ta mất sự bình an, hạnh phúc và lâu dài hơn lại cản trở ta đạt được sự giải thoát. Kẻ thù đó chính là sự sân hận, cố chấp của bản thân chúng ta.
Hiểu được như thế thì ta không còn gì để chống đối. Không còn cãi vả, không còn nhìn người khác như kẻ thù, khi kẻ thù thực sự đã biến mất. Một phần thưởng lớn lao cho chút công sức nhỏ mọn có phải không? Về lâu, về dài, bạn và tha nhân cũng tránh được sự lặp đi lặp lại những hoàn cảnh tương tự khiến sự xung đột có thể xảy ra. Như thế cả hai người đều cùng có lợi.
Ta có thói quen là luôn tìm cách trả đũa người khác, làm cho bằng họ. Nếu ai xúc phạm ta, ta thường chấp chặt vào đó, rồi tự hành hạ mình bằng những câu hỏi: Tại sao nó lại nói với tôi như thế? Vân vân. Giống như khi người ta bắn một mũi tên về phía ta nhưng không trúng, và khi ta cứ cố chấp về những lời nói, hành động của người thì giống như ta đi nhặt mũi tên đó lên và găm chặt nó vào mình, để tự gây thương tích bằng những suy nghĩ như: “Nó nói những lời đó thật quá đáng, tôi không thể tin là nó có thể nói như thế với tôi”.
Tuy nhiên ta có thể dùng phương pháp này để quán tưởng theo một cách khác, hầu thay đổi các phản ứng giận dữ theo thói quen của ta. Lúc đầu ta sẽ khó thực hành trong những lúc đang nóng giận, đầu óc không được sáng suốt, nhưng ta sẽ bắt đầu thực hành khi ở nhà một mình. Hãy tưởng tượng ra những xung đột và các phản ứng thông thường của ta. Thí dụ, tưởng tượng ra ai đó đánh đập, sĩ nhục hay xúc phạm bạn. Bạn tự nghĩ: “Tôi phải làm gì? Tôi phải bảo vệ tôi chứ - tôi sẽ chống trả lại. Tôi sẽ đuổi cổ hắn ra khỏi nhà”. Giờ thì thử một cách ứng xử khác. Hãy tự nhủ mình, “Kẻ này đang chọc giận ta, nhưng sân hận là gì? Nó là một trong những món độc hại cho tâm, dẫn tới tạo ra ác nghiệp, dẫn tới đau khổ thêm. Trả đũa lại với người làm ta tức giận cũng giống như nhìn thấy một người điên sắp nhảy xuống vực thẳm. Ta có cần hành động giống như thế không? Hành động đó rõ ràng là điên rồ, nhưng càng điên hơn, nếu ta cũng làm giống như người đó”.
Hãy nhớ rằng những người tấn công, đối xử không tốt với bạn, chỉ tự chuốc lấy khổ đau, tạo ra các ác nghiệp chỉ vì u minh. Họ nghĩ rằng họ đang hành động vì lợi ích của bản thân, đang sửa chữa những điều sai trái, hay ngăn cản những điều tai hại có thể xảy ra. Nhưng sự thật là hành động của họ không mang lại lợi ích gì. Họ có nhiều điểm giống với một kẻ đau đầu, nhưng lại dùng búa đập vào đầu mình để giảm đau. Và rồi, họ đổ lỗi cho người khác về nỗi đau của mình, người khác lại giận dữ, chống đối trở lại làm cho sự việc càng thêm tồi tệ. Khi nghĩ về những bất hạnh của họ, ta nhận ra rằng họ đáng cho chúng ta thương hơn là trách móc, giận hờn. Lúc đó ta sẽ có thêm động lực để làm mọi cách bảo vệ họ khỏi phải đau khổ thêm, như ta vẫn làm với đứa trẻ cứng đầu, cứ chạy ra đường, nhưng khi ta cố dẫn nó vào thì nó đánh đấm, cào cấu ta. Thay vì bỏ mặc những kẻ tự hủy mình như thế, ta cần phải nhận ra rằng chính họ cũng đang đi tìm hạnh phúc nhưng không biết phải làm sao.
Hơn nữa kẻ thù của ta hôm nay chưa hẳn sẽ là mãi mãi. Kẻ gây phiền não cho ta hôm nay, sau này có thể trở thành bạn tốt của ta. Hay trong một tiền kiếp nào đó, họ có thể là người đã sinh ra, nuôi nấng và thương yêu ta.
Thực hành quán tưởng như thế mãi, ta sẽ biết cách phản ứng lại với những xung đột bằng lòng từ bi, trả lại sự giận dữ bằng lòng tử tế của mình.
Một phương cách khác có thể sử dụng nữa là phát triển chánh niệm về tánh không thực của sân và mục tiêu của sân. Thí dụ có người nói với ta rằng: “Anh là kẻ xấu xa”. Hãy tự hỏi mình rằng: “Điều người ta nói có làm mình trở thành người xấu không? Hay ngược lại nếu mình xấu, mà họ bảo mình tốt, thì có làm mình tốt hơn không?” Nếu có ai đó bảo rằng than là vàng, có làm cho than trở thành vàng không? Hoặc họ bảo rằng vàng là than, có làm cho vàng trở thành than không? Sự vật không thay đổi theo lời nói thế này, thế nọ của người đời. Tại sao ta phải quá bận tâm vì những lời nói đó?
Hãy ngồi trước tấm gương, nhìn nét mặt của bạn, rồi nói: “Bạn xấu lắm, bạn tồi lắm”. Hay nói ngược lại: “Bạn tốt lắm, bạn đáng yêu lắm”. Dầu bạn nói gì, hình ảnh trong gương vẫn không thay đổi. Khen tặng hay phỉ báng tự chúng không có thực, giống như một tiếng vọng, một chiếc bóng, một phản chiếu. Chúng không có quyền lực gì để làm ta tốt hay xấu đi.
Khi đã thực hành bằng cách đó, ta bắt đầu nhận ra rằng sự vật không có thực thể, giống như một giấc mộng, một ảo tưởng. Do đó, ta phát triển được tâm rộng lớn – tâm không cố chấp, để khi sân nỗi lên, thay vì phản ứng theo thói quen, ta có thể dừng lại, quán sát tâm, tự hỏi: “Cái gì đây? Cái gì có thể khiến ta đỏ mặt, run tay? Nó ở đâu đến thế này?”. Ta sẽ thấy là không thể thấy được hình tướng của sân hận, không có gì để tìm.
Một khi ta không thể tìm ra cái giận, ta có thể để tâm tự tại. Ta không đè nén sân, không xua đuổi nó, cũng không làm theo nó sai khiến. Ta cứ để tâm dừng lại ở trạng thái đó, rồi ta sẽ thấy là sân hận cũng như tham ái, thật ra không giống như ta tưởng. Ta bắt đầu nhận ra được khoảng cách thật của nó, chỉ là hình ảnh phản chiếu qua tấm gương.
Có lẽ những điều này nói dễ hơn làm. Sân có đủ sức mạnh để khuấy động tâm ta hơn, và ta phóng theo nó – bằng cách này hay cách khác. Chúng ta phóng tâm đến phán đoán, đến phản ứng, đến thứ này hoặc thứ kia, ngụp lặn trong những điều làm ta thêm mất bình tĩnh. Thói quen chống trả lại đã được hằn sâu, thành nếp do được lặp lại nhiều lần, kiếp này qua kiếp khác.
Chỉ qua thực hành, áp dụng những phương pháp này, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, ta mới mong bỏ được những thói quen đó. Quá trình này có thể phải lâu dài, nhưng rồi ta sẽ thay đổi được. Ta rất dễ dàng thay đổi một cách tiêu cực. Khi ta đang hạnh phúc, vui vẻ, chỉ cần ai đó nói đến điều gì, làm điều gì không vừa ý là ta trở nên bực bội, nhưng thay đổi để tốt hơn, một cách tích cực hơn đòi hỏi phải có kỷ luật, công sức, và kiên nhẫn.
Chúng ta không cần một nhà tiên tri để biết tương lai mình ra sao – ta chỉ cần nhìn ngay tâm mình. Nếu như chúng ta có trái tim nhân hậu, sẳn sàng giúp đỡ người khác thì ta sẽ tiếp tục được hạnh phúc. Trái lại, nếu tâm ta chỉ chứa đầy những tư tưởng sân hận, muốn hại người, ta sẽ gặp toàn những chuyện không may.
Nếu ta luôn kiểm soát tâm, tiếp tục chữa trị các chứng bệnh của tâm, dần dần ta sẽ thấy được sự đổi thay. Chỉ có ta mới biết được những gì xảy ra trong tâm ta. Chúng ta có thể dối gạt người khác. Chúng ta có thể phỉnh phờ bảo một cái túi da phình to là đựng của báu, nhưng khi người ta ngồi lên trên đó, người ta sẽ khám phá ra nó trống rỗng. Tương tự ta có thể ngồi trong tư thế tọa thiền hằng giờ nhưng nếu lúc đó trong đầu ta chỉ toàn tư tưởng độc hại, thì ta chỉ tự dối gạt mình. Tốt hơn hết là phải thành thật với chính mình, chịu trách nhiệm về những gì ta thấy trong tâm ta – hơn là phán đoán chúng – và điều trị chúng đúng thuốc để ta có thể lành bệnh.
Trích: Putting Down The Arrow, Tricycle 1998
Tác giả: Chagdud Tulku Rinpoche
Việt dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
------------------------------
Bản ngã sai lầm
Viết bởi Tuệ Dũng
Bản ngã tự thấy mình là trung tâm của vũ trụ, và vị trí của nó là thường hằng. Làm sao chúng ta phản đối tri giác sai lầm này? Hãy tranh luận với bản ngã. Tranh luận về việc nó nhìn nó và nhìn người khác như thếnào.
1. Tất cả chúng ta đều mong muốn điều giống nhau.
Có những người bạn thích, có người bạn không thích, có người bạn không thích cũng không ghét. Sự thật là mọi người trong số đó, bất kể bạn thích hay không, đều mong muốn giống y như bạn vậy, đều mong muốn hạnh phúc. Họ muốn không bị đau khổ, cũng như bạn vậy. Bạn có thể nêu ra người nào xứng đáng chịu đau khổ hay không? Làm sao bạn phân biệt ra được?
Mọi người đều muốn tinh thần sảng khoái, có những giấc mơ đẹp, muốn bình an, giống như bạn vậy. Họ có những ước muốn bất thành, cũng như bạn, họ xứng đáng thành tựu những ước mơ đó. Hạnh phúc của họ cũng quan trọng như hạnh phúc của bạn.
2. Nhãn hiệu “bạn bè” đáng tin cậy tới mức nào? Nhãn hiệu “kẻ thù” đáng tin cậy tới mức nào?
Giả sử chúng ta đang băng qua đường và một chiếc xe sắp đụng chúng ta. Trong giây phút ấy, khi biết rằng sự sống của chúng ta sắp sửa biến đi như một giấc mơ thì có đáng để chúng ta nuôi giữ lòng ghét bỏ ai đó không? Hay lòng luyến ái với người nào đó? Khi đối mặt với thần chết mọi thành kiến hay sự cãi vả của chúng ta thường trở nên vô nghĩa. Sự khác biệt giữa chúng ta và người sắp bị xe đụng là họ có ý nghĩ rõ ràng hơn về lúc nào họ sẽ ra đi. Còn ta thì không chóng thì chầy cũng ở trong vị thế tương tự. Có thể là ngày mai, hay vài năm nữa. Ta sẽ phải lìa bỏ mọi người và mọi thứ, vậy thì có đáng để nuôi giữ lòng ghét bỏ hay luyến ái không?
3. Chúng ta sống dựa vào lòng tốt của người khác.
Mọi người, dù chúng ta có biết họ hay không, đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta theo một cách nào đó – hoặc là họ sản xuất một đồ phụ tùng để sửa xe cho chúng ta, hay trồng lúa mì để làm bánh cho chúng ta ăn. Nếu bạn nhìn mọi sự vật dưới góc độ tái sinh, thì chúng ta đã hiện hữu tự thuở nào, dưới dạng này hay dạng khác, thế nên mọi chúng sinh vào lúc này hay lúc khác đều có liên hệ với chúng ta. Mọi chúng sinh đều đã từng là người gần gũi và thân yêu nhất của ta, đã từng gặp gỡ ta trên đường đời, đã từng là mẹ của ta, tắm rửa và cho ta ăn. Họ cũng đã từng sỉ nhục và gây tổn hại cho ta, nhưng thông thường hơn là họ làm gì đó để duy trì cuộc sống cho ta. Và bất kỳ tổn hại nào họ gây ra cho ta đều do lòng sợ hãi. Kẻ thù hôm nay có thể là người yêu hôm qua. Chúng ta không biết. Đó là điều có khả năng xảy ra. Hãy ghi nhớ điều này một cách sâu sắc.
Nếu tôi quyết định dẹp bỏ bản ngã của tôi, thì tôi không thể làm như vậy mà không có người khác: Khi tôi cố gắng thực hành kham nhẫn, nếu tôi cố giữ mình không gây tổn hại người nào đó, thì chính người làm tôi giận dữ đã cho tôi cơ hội để thực tập kham nhẫn. Khi tôi cố biến lòng luyến ái thành tình thương thuần khiết thì người làm tôi bị ám ảnh đã cho tôi cơ hội để cố gắng. Tôi không thể nào sống còn mà không có lòng tốt và sự hào phóng của người khác.
4. Tất cả chúng ta đều ở trong cảnh ngộ giống nhau.
Tất cả chúng ta đều đau khổ như nhau và mọi người sinh ra đều sẽ chết. Nếu tôi là một bác sĩ và đứng trước ba người sắp chết, tôi có thể nào nói, “Mình sẽ chữa trị cho người mình thích thôi?”. Có thể không có đủ thì giờ để chữa hết cho cả ba, nhưng nên có ý nghĩa như thế.
Vì tôi sẽ chết và bạn sẽ chết, điều đó có nghĩa là mọi vật đều vô thường. Không có chuyện là một người nào đó sẽ là bạn của mình mãi mãi hay người nào đó là kẻ thù mãi mãi. Chúng ta có thể thấy điều đó ngay trong cuộc sống của mình. Người mà chúng ta thề yêu thương suốt đời trở thành người bạn tốt nhất của ta. Xem người nào đó là “bạn” hay “thù” luôn luôn, không thay đổi thì đó là sự mù quáng của bản ngã. Nhưng “bạn” tùy thuộc vào “thù” cũng giống như phương Đông tùy thuộc vào phương Tây, đêm phụ thuộc vào ngày, trên tùy thuộc vào dưới. Những gì bạn làm đều ảnh hưởng đến tôi và ngược lại. Người ta nói rằng, chuyển động của một con bướm ở Trung Quốc ảnh hưởng đều chiều gió ở Mỹ. Cơ thể của chúng ta, nhân thân, và cuộc sống của chúng ta đều quyện chặt vào nhau. Chúng ta không thường hằng, chúng ta không tồn tại biệt lập, và không ai tự bản chất là bạn hoặc thù.
5. Hãy noi gương những bậc giác ngộ.
Khi bạn nhìn những bậc vĩ nhân như đức Phật hay chú Jesus, nhìn những bậc tiên tri hay bậc thánh, những vị ấy có phân biệt giữa người này với người khác không? Không. Họ không có thích hay không thích. Họ đều muốn giúp mọi người như nhau. Những bài pháp xưa nay cho chúng ta biết rằng những bậc giác ngộ cư xử với người khác như người mẹ đối xử với con một của mình. Các vị thầy cũng dạy rằng đức Phật cảm nghĩ về người dâng cúng dầu thơm cho ngài cũng như người chặt cánh tay ngài. Ngài thương tất cả và muốn giúp đỡ cho họ, bởi vì mọi người đều đau khổ và mong muốn hạnh phúc. Điều này đối với chúng ta dường như cực đoan, nhưng điều ấy là điều có thể. Tôi đã thấy các vị thầy của tôi sống cuộc đời trong trạng thái thanh thản. Không ai đến để chặt tay họ, nhưng tôi thấy họ cư xử với những người đối xử tệ với họ cũng như cư xử với học trò thân cận.
Khi các bạn thấy được chân tướng của “cái tôi, cái quý giá nhất” thì bạn bắt đầu phát triển tuệ giác. Khi các bạn thực sự hiểu sự tương thuộc của tất cả mọi sự vật, bản chất của thực tại, thì bạn có tuệ giác. Nhưng chừng đó có đủ để đạt được giải thoát khỏi khổ đau? Có lẽ là chưa. Cái bất thiện cần phải được thay thế bằng cái thiện. Sân hận cần phải được thay thế bằng sự kham nhẫn hay hiểu biết. Luyến ái cần được thay bằng tình thương thuần khiết. Sự ghen ghét cần phải được thay thế bằng sự thương yêu, chăm sóc. Tuệ giác không thôi chưa đủ. Tình thương và từ bi sẽ dẫn đến sự phát triển khả năng lựa chọn cuộc sống mà chúng ta mong muốn. Khi chúng ta từ bỏ bản ngã, thì chúng ta thay thế nó bằng cái gì? Chúng ta thay “cái tôi, cái quý giá nhất” bằng việc xem người khác là quý giá nhất.
Chiêu thức cuối cùng để dẹp trừ "cái tôi, cái quý giá nhất” là bắt đầu công việc cho người khác hạnh phúc và nhận đau khổ cho người. Bản ngã nghĩ rằng mình nên có cái gì tốt nhất, cho nên nếu như cho nó cái tệ nhất thì nó sẽ rút lui. Phương pháp thực tập này gọi là tonglen – cho và nhận.
Lúc đầu, nếu như bạn thật sự thực tập, không cần phải hướng đến nhiều người, một người thôi cũng được, có thể là người bạn yêu mến, con của bạn, hoặc bất kỳ người nào bạn rất quan tâm. Hãy hình dung người ấy ngồi bên cạnh; bạn hãy thở ra bằng lỗ mũi bên phải, và đi ra cùng với hơi thở ấy là tất cả nghiệp thiện và tình thương của bạn. Hãy cho người ấy mọi sự tốt đẹp không chút do dự. Đó là thực tập tình thương. Rồi hít vào bằng lỗ mũi bên trái và nhận tất cả nguồn gốc gây đau khổ cho người ấy – đó là thực hành từ bi – và để cho nó đánh ngay vào đầu bản ngã.
Lúc này có lẽ có một sự do dự - chắc chắn là như vậy – khi nhận vào sự đau khổ của người khác. Nếu ý nghĩ này làm bạn sợ thì hãy bắt đầu bằng cách nhận lấy mọi đau khổ trong tương lai của bạn, những khổ đau mà bạn sẽ trải qua vào ngày mai, vào những tuần lễ sắp đến, tháng, năm sắp đến, những kiếp sắp đến. Hãy nhận hết ngay bây giờ và để nó hòa tan trong trái tim của bạn và đi vào bản chất của thực tại.
Chúng ta có thể dùng sự thực tập này để lợi dụng những khó khăn của chúng ta thay vì để cho chúng làm cho chúng ta điên đảo. Chúng ta đang nhận lãnh quả của những gì chúng ta đã gieo nhân trong quá khứ, và chúng ta lấy làm sung sướng rằng nó sẽ qua đi, biến khỏi cuộc đời của chúng ta và chúng ta sẽ vượt qua nó. Rồi chúng ta có thể nhớ thật sự cầu nguyện rằng một chút đau đớn hoặc sợ hãi, hay là gì đó đi nữa, cũng có thể làm cho người khác đỡ phải gánh chịu một sự đau khổ như thế hoặc hơn thế. Các bậc tôn đức xưa nay dạy rằng bằng vào năng lượng của từ bi thì một chút đau khổ có thể cứu chúng ta khỏi sự khổ đau tệ hại hơn rất nhiều trong tương lai. Một chút khó khăn về tài chính có thể thay thế cho một triệu năm làm con ma đói. Một chút nhức đầu có thể thay cho một thời khù rất dài ở chốn địa ngục. Nếu chúng ta nhìn nó theo cách: “Ừ mình bị tai nạn, nhưng mình vẫn còn sống”, hoặc “Ừ, thì mình bị thương, nhưng ít ra là không ai làm cho vết thương tệ hại hơn,” thì vấn đề sẽ trở thành không có gì lớn như mình vẫn nghĩ.
Sau một thời gian hãy thực tập với người khác, người mà bạn thật sự yêu thương, những người mà bạn sẵn sàng làm mọi việc để cho họ khỏi đau khổ. Tất cả mọi đau khổ sẽ ở dưới dạng một đám mây đen trong tim. Hơi thở của bạn kéo đám mây đen ấy ra khỏi người họ hay khỏi người của bạn. Ở bên trong trái tim, bản ngã là một ngọn đèn nhỏ đang cháy. Đám mây đen đi vào và thổi tắt ngọn lửa ấy. Phù, thế là nó đã tắt, đã bị tiêu diệt. Và những người ấy, do bạn đã hút ra nguyên nhân bất thiện gây ra đau khổ và cả sự đau khổ, đều sẽ giải thoát khỏi cả hai. Thay vào đó bạn cho họ sự may mắn, niềm vui, phúc lành, và tuệ giác của bạn dưới dạng ánh sáng. Và họ sẽ ngập tràn ánh sáng đó và trở nên sung sướng.
Trích: Sống Chết An Lành
Tác giả: Gehlek Rimpoche
Việt dịch: Trần Ngọc Bảo
------------------------------------------------
Thái độ ứng phó với sân si và cảm xúc
Viết bởi Tuệ Dũng
Sân si và hận thù là hai người bạn thân thiết với nhau. Lúc còn trẻ, tôi đã có mối quan hệ khá gần gũi với sự sân si. Thế rồi, dần dần, tôi đã tìm ra được rất nhiều điều bất đồng đối với nó. Bằng cách sử dụng lương tri, cộng với sự giúp đỡ của lòng từ bi và trí huệ, giờ đây tôi đã có lý lẽ mạnh hơn để đánh bại được sân si.
Có lẽ có hai loại sân si. Một loại sân si có thể được chuyển hóa thành một thứ cảm xúc tích cực. Chẳng hạn, nếu một người có động cơ chân thực, đầy lòng từ mẫn, và quan tâm đến ai đó mà họ lại chẳng thèm chú ý gì đến lời cảnh báo về các hành động của mình, lúc đó chẳng còn có chọn lựa nào khác ngoại trừ phải sử dụng đến một loại vũ lực nào đó để ngưng những hành động xấu của người đó lại.
Theo kinh nghiệm của tôi, nếu mỗi cá nhân biết nỗ lực, thì anh hay chị ta đều có thể thay đổi được cả. Dĩ nhiên, sự thay đổi chẳng phải một sớm một chiều mà cần phải có nhiều thời gian. Để thay đổi và đối diện với các cảm xúc, điều cốt lõi là phải phân tích xem những tư tưởng nào là hữu ích, có tính chất xây dựng, và có lợi cho chúng ta. Tôi muốn nói đến những tư tưởng làm cho chúng ta trở nên an nhiên hơn, thoải mái hơn, và những tư tưởng mang đến cho chúng ta cái tâm an bình, chứ không phải những tư tưởng tạo ra sự bất an, sợ sệt và giận dữ.
Bên trong cơ thể là hàng tỷ tỷ phân tử khác nhau. Cũng giống như vậy, có rất nhiều tư tưởng khác nhau, cùng đủ thứ loại trạng thái ý thức (mạt na thức) khác nhau. Việc có một sự quán xét thật rõ ràng thế giới nội tâm và có một sự phân biệt giữa các trạng thái ý thức có lợi và có hại là điều quả thật khôn ngoan đáng làm. Một khi có thể nhận ra giá trị của những trạng thái thiện hảo trong tâm hồn, bạn có thể làm tăng chúng lên hoặc củng cố chúng.
Đức Phật đã dạy về các giáo lý của Tứ diệu đế và những điều này tạo thành nền tảng cho Phật pháp. Đệ tam đế chính là diệt đế. Trong khuôn khổ này, sự diệt có nghĩa là trạng thái tâm hồn, tức ý căn, thông qua sự tu trì và nỗ lực, đã chấm dứt hết thảy các cảm xúc tiêu cực. Đó là một trạng thái trong đó cá nhân đã đạt đến tâm hồn viên mãn, thoát khỏi hệ quả của những cảm xúc, những ý thức khác nhau mang tính chất tiêu cực và phiền não.
Trạng thái diệt đích thực, theo Phật giáo, chính là chỗ trú, nơi nương tựa mà hết thảy các Phật tử đang tu trì muốn tìm đến. Lý do khiến người ta muốn tìm kiếm nơi nương tựa ở Đức Phật chẳng phải vì Đức Phật ngay từ đầu đã là một con người đặc biệt, mà vì Ngài đã nhận chân được trạng thái diệt đích thực.
Nói chung, theo kinh điển Phật giáo, một cảm xúc hay một mạt na thức tiêu cực đều bị coi là “trạng thái gây nên sự rối loạn trong tâm trí của một người”. Những cảm xúc và ý thức mang đến phiền não này chính là những yếu tố không tạo nên hạnh phúc và gây ra sự xao động trong lòng chúng ta. Tại một hội nghị khoa học mà tôi đã tham gia, người ta đã đi đến kết luận rằng ngay các vị Phật cũng có cảm xúc. Từ đó, karuma (lòng từ bi), tức lòng thương xót hay lòng tốt vô biên, có thể được coi như một loại cảm xúc.
Tất nhiên, cảm xúc cũng có thể là tích cực hay tiêu cực. Thế nhưng, khi nói đến sân si, là chúng ta có ý nói đến những cảm xúc tiêu cực. Các cảm xúc tiêu cực là những cảm xúc tạo ra loại tâm trạng khổ sở, bực bội, khó chịu, những điều mà về lâu dài sẽ gây ra những nghiệp quả nào đó. Những nghiệp quả đó cuối cùng lại dẫn đến sự tổn hại, tổn thương cho người khác, và điều này mang đến sự đớn đau hay thống khổ cho chính mình. Đây chính là những gì chúng tôi có ý muốn nói về các cảm xúc tiêu cực.
Trong con đường tu tập của Phật giáo Mật tông có những phương pháp quán tưởng cho phép biến đổi tinh lực của lòng sân si. Đây chính là lý do tiềm ẩn đằng sau các vị hung thần. Trên nền tảng của động cơ, sự từ bi, trong một số trường hợp, có thể trở nên có ích, bởi nó mang đến cho chúng ta thêm sức mạnh, và cho phép chúng ta hành động nhanh chóng. Thế nhưng, sự giận dữ thường dẫn đến thù hằn, và sự thù hằn luôn luôn là tiêu cực. Lòng sân hận là mảnh đất nuôi dưỡng ác ý.
Tôi thường phân tích sự sân si dựa trên hai cấp độ: cấp độ con người và cấp độ của Phật. Từ cấp độ con người, không cần dựa vào bất kỳ truyền thống tôn giáo hay ý thức hệ nào, chúng ta cũng có thể nhìn ra nguồn cội hạnh phúc của chúng ta: sự khỏe mạnh, tiện nghi vật chất và những bằng hữu tốt. Bây giờ, nếu xét từ góc độ sức khỏe thì các cảm xúc tiêu cực, như lòng sân hận chẳng hạn, đều hoàn toàn không có lợi.
Trạng thái tinh thần của bạn phải luôn luôn giữ được sự tĩnh lặng, dẫu có sự băn khoăn, lo lắng nào xảy ra chăng nữa, bởi sống trên đời tất cả phải có chuyện đó thôi. Giống như ngọn sóng vậy, trồi lên khỏi mặt nước và hòa quyện trở lại với nước, những xao động này rất ngắn ngủi, cho nên chúng không ảnh hưởng đến thái độ, tâm trí bạn. Nếu bạn giữ được sự bình lặng thì huyết áp và v.v… sẽ ổn định, kết quả là sức khỏe của bạn sẽ khả quan hơn.
Một số bạn thân của tôi bị huyết áp cao, nhưng họ chưa bao giờ bị lâm vào cảnh cận kề với những nguy hiểm về sức khỏe và họ cũng chưa bao giờ cảm thấy bị mệt cả. Qua bao năm tháng, tôi đã gặp được một số hành giả hết sức tuyệt vời. Cùng lúc đó, tôi cũng có những người bạn khác luôn thoải mái về mặt vật chất, thế nhưng, khi chúng tôi bắt đầu trò chuyện với nhau, sau mấy câu xã giao ban đầu, họ bắt đầu than vãn và buồn nản. Mặc dù sung túc về mặt vật chất, nhưng những người đó lại không có được tâm hồn tĩnh lặng hay thư thái. Kết quả là họ luôn luôn lo âu về chuyện tiêu hóa, chuyện ăn ngủ của mình, đủ mọi thứ! Do đó, rõ ràng sự bình yên của tâm thức là một yếu tố hết sức quan trọng để có sức khỏe tốt.
Nguồn cội thứ hai dẫn đến hạnh phúc chính là từ các tiện nghi vật chất của chúng ta. Đôi lúc, khi tôi thức dậy vào sáng sớm, tâm trạng của tôi chẳng mấy thoải mái, nên khi nhìn vào đồng hồ của mình, tôi cảm thấy thật khó chịu. Thế nhưng một ngày khác, có lẽ do những điều đã trải qua ở ngày trước đó, tôi thức dậy với tâm trạng phấn chấn, vui vẻ và bình thản. Lúc đó, nhìn vào chiếc đồng hồ, tôi thấy nó thật đẹp xiết bao. Mà cũng chính cái đồng hồ đó chứ nào phải cái nào khác đâu? Sự khác biệt như vậy xuất phát từ thái độ tinh thần của chúng ta. Điều đó cho thấy, dẫu sự sử dụng các tiện nghi vật chất có mang đến sự thỏa mãn đích thực hay không cũng đều tùy thuộc vào thái độ tinh thần của chúng ta cả.
Nếu tâm trí của chúng ta đang chứa đầy sân si, các sở hữu vật chất của chúng ta cũng gặp vận rủi. Xin kể lại theo kinh nghiệm của bản thân tôi, khi còn trẻ, tôi cũng thường hay ngồi sửa đồng hồ. Tôi đã cố gắng và đã thất bại nhiều lần. Đôi lúc tôi mất cả bình tĩnh và đập cái đồng hồ đó! Trong những lúc như vậy, sự giận dữ đã làm thay đổi hoàn toàn thái độ của tôi. Sau đó tôi cảm thấy hết sức hối hận với hành động của mình. Nếu mục tiêu của tôi là sửa chiếc đồng hồ, thì tại sao tôi lại đập nó vào bàn? Một lần nữa, bạn cũng có thể thấy thái độ tinh thần quan trọng ra sao để tận dụng được các tiện nghi vật chất cho sự thỏa mãn hay lợi ích đích thực của mình.
Nguồn cội thứ ba dẫn đến sự hạnh phúc chính là các bằng hữu của chúng ta. Điều đó rõ ràng là, khi tâm hồn bạn tĩnh lặng, an nhiên, bạn chân thực và cởi mở, tuy có bất đồng rất lớn về ý kiến thật, nhưng bạn vẫn có thể biểu thị, bày tỏ trên bình diện con người. Bạn có thể gạt sang bên những ý kiến bất đồng ấy và giao tiếp như những con người với nhau. Tôi nghĩ đó là một cách để tạo ta những cảm giác tích cực trong tâm trí của người khác.
Tôi nghĩ rằng có nhiều giá trị hơn trong tình cảm chân chất của con người, so với hiện trạng và v.v… Tôi chỉ là một con người thuần túy. Thông qua kinh nghiệm và kỷ luật tâm thức, một thái độ mới nào đó đã nảy sinh. Điều này chẳng có gì đặc biệt cả. Bạn, người mà tôi nghĩ là đang có một nền học vấn tốt đẹp và có nhiều kinh nghiệm hơn tôi, có nhiều khả năng hơn để làm thay đổi nội tâm của chính mình. Tôi sinh ra trong một ngôi làng nhỏ, nơi chẳng có nền học vấn hiện đại hay hiểu biết sâu sắc về thế giới. Cũng vậy, từ năm 15-16 tuổi, tôi đã có một gánh nặng bất khả tư nghị rồi.
Một người trong số các bạn tất sẽ cảm thấy rằng mình có khả năng rất lớn; và với sự tự tin cùng đôi chút nỗ lực, chuyện thay đổi là điều thật sự có thể được nếu bạn muốn. Nếu bạn cảm thấy không hài lòng cách sống hiện tại của bạn và gặp một số khó khăn, thế thì đừng nhìn vào những điều tiêu cực này. Hãy nhìn vào mặt tích cực, khả năng, và hãy nỗ lực.
Cũng vậy, khi nào chúng ta còn giao tiếp với đồng loại, khi ấy thái độ tinh thần của chúng ta vẫn còn là điều hết sức quan trọng. Ngay cả đối với người không theo đức tin nào cả, chỉ là một con người chân thực đơn thuần mà thôi, cội nguồn tối hậu của hạnh phúc cũng vẫn ở thái độ tinh thần của chúng ta. Mặc dù bạn có sức khỏe tốt, nhiều tiện nghi vật chất và có mối quan hệ tốt đẹp với người khác, thì nhân duyên chính yếu của hạnh phúc cũng vẫn là ở bên trong bạn.
Bây giờ, bạn có thể biết làm thế nào để giảm thiểu sự sân si. Trước tiên, điều quan trọng là nhận chân tính chất tiêu cực của những cảm xúc này, nhất là sự thù hằn, căm ghét. Tôi coi sự thù hằn là kẻ thù tối hậu. Về chữ “kẻ thù” này, tôi có ý muốn nói đến con người hay yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp gây hủy hoại cho lợi ích của chúng ta. Lợi ích của chúng ta chính là tạo được sự hạnh phúc tối hậu.
Giờ đây chúng ta cũng có thể nói về kẻ thù bên ngoài. Đối với kẻ thù bên ngoài, chúng ta có thể trốn thoát hay lẩn tránh khỏi, đôi lúc thậm chí còn có thể đánh lừa được nó. Chẳng hạn, nếu có ai đó gây xao động cho sự bình an trong nội tâm của tôi, tôi có thể tránh thoát bằng cách đóng cửa phòng lại và ngồi tĩnh lặng một mình. Thế nhưng, tôi không thể làm được điều đó với lòng sân si! Dẫu tôi có đi đâu, nó vẫn luôn có mặt. Mặc dù tôi có khóa trái cửa phòng của mình thì sự giận dữ vẫn vào được bên trong. Trừ phi bạn dùng đến một phương cách nào đó, còn thì chẳng thể nào thoát khỏi nó được cả. Do đó, sân và hận – và ở đây tôi muốn nói đến sự giận dữ tiêu cực – xét cho cùng chính là kẻ hủy hoại sự bình an nơi tâm hồn tôi, do đó là kẻ thù đích thực của tôi.
Một số người tin rằng việc đè nén cảm xúc là không tốt, rằng tốt nhất cứ để mặc nó lộ ra. Tôi nghĩ có những khác biệt giữa các cảm xúc tiêu cực khác nhau. Chẳng hạn, với sự thất vọng, mọi sự chán nản nào đó đã nảy sinh như là kết quả của biến cố đã qua. Đôi khi, nếu bạn che đậy những biến cố tiêu cực, như chuyện lạm dụng tình dục chẳng hạn, thì dù muốn dù không điều này cũng làm nảy sinh ra những vấn đề. Do đó, trong trường hợp này, cách hay nhất vẫn là bày tỏ nỗi đau và cứ để mặc nó.
Thế nhưng, đối với sự giận dữ, nếu bạn không có một nỗ lực để làm giảm nhẹ nó, nó sẽ vẫn còn bám theo cùng với bạn và thậm chí còn tăng lên nữa. Khi ấy, ngay với những sự cố nhỏ bạn cũng sẽ lập tức giận dữ. Một khi bạn cố kiểm soát hay kìm nén cơn giận dữ, thì khi ấy dần dần ngay những biến cố lớn cũng sẽ không khiến bạn giận lên được.
Khi sự sân si xuất hiện, có một kỹ thuật quan trọng giúp bạn giữ được sự an nhiên trong lòng. Bạn sẽ không trở nên bất mãn hay thất vọng bởi đây chính là nhân của lòng sân hận. Có một mối quan hệ tự nhiên giữa nhân và quả. Một khi những nhân và duyên nào đó đã hội tụ đầy đủ, thật khó lòng có thể ngăn được quả luân (tiến trình kết quả không đơm bông kết trái). Điều cốt lõi chính là biết quán xét tình huống, sao cho ngay từ bước khởi thủy người ta có thể đặt được dấu chấm hết cho tiến trình tạo quả đó. Khi ấy, nó không còn tiếp tục bước tới giai đoạn kế tiếp được nữa.
Trong quyển sách viết về Phật giáo, Guide to the Bodhisattva Way of Life (Chỉ nam sống theo hạnh Bồ Tát), đại học giả Shantideva (Tịch Thiên) có nói rằng, điều hết sức quan trọng là phải đảm bảo không bị vướng vào một tình huống làm dẫn đến lòng bất mãn, vì bất mãn chính là hạt giống của cây sân si. Điều này có nghĩa rằng người ta phải có một cái nhìn nào đó đối với các sở hữu vật chất, bằng hữu của mình, và đối với các hoàn cảnh khác nhau.
Các cảm xúc bất mãn, không vui, sự mất hy vọng, v.v… của chúng ta thật ra đều thuộc về hiện tượng cả. Nếu không có cách nhìn đúng, thì bất cứ chuyện gì cũng đều có thể gây cho chúng ta sự thất vọng. Thế nhưng, hiện tượng là một phần của thực tại, và chúng ta phụ thuộc vào các quy luật của sự hiện hữu. Do vậy, điều này mang đến cho chúng ta một lựa chọn duy nhất: thay đổi thái độ của chính mình, cách nhìn đối với vạn vật, hết thảy các hiện tượng đều có thể là bạn bè hay nguồn cội của hạnh phúc, thay vì trở thành những kẻ thù hay cội nguồn của tâm trạng thất vọng.
Về phương diện nào đó, việc có một kẻ thù là điều hết sức tệ hại. Nó gây rối cho sự bình lặng trong tâm hồn và phá hỏng một số điều tốt đẹp trong ta. Thế nhưng, nếu chúng ta nhìn nó từ một góc độ khác, chỉ một kẻ thù không thôi cũng mang đến cho chúng ta cơ hội để hành tập sự nhẫn. Không ai khác mang đến cho chúng ta cơ hội để có được sự nhẫn. Bởi chúng ta đâu có biết hết con người trên Trái Đất này, do đó chúng ta ít có cơ hội để có được sự nhẫn. Chỉ những người chúng ta biết, những người đang gây ra nhiều điều phiền não cho chúng ta mới thật sự tạo cho chúng ta dịp tốt để hành tập sự nhẫn nại và khoan thứ.
Shantideva nói rằng chính chủ tâm làm hại chúng ta khiến kẻ thù trở nên hết sức đặc biệt. Nếu kẻ thù không có chủ tâm làm hại chúng ta, khi ấy chúng ta sẽ không xếp người đó vào loại kẻ thù, va do đó thái độ của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hẳn. Chính chủ tâm của anh hay chị ta mới khiến người đó trở thành kẻ thù, và bởi chính vì thế, nên kẻ thù đã mang đến cho chúng ta cơ hội để hành tập lòng bao dung và sự nhẫn nhục. Do đó, kẻ thù chính thực là một ông thầy quý báo. Bằng cách suy nghĩ theo những dòng luận giải như vậy, bạn có thể dần dần làm giảm đi các cảm xúc tinh thần tiêu cực, nhất là lòng sân hận.
Một câu hỏi khác là, nếu bạn vẫn luôn luôn khiêm tốn và người khác có thể lợi dụng bạn, bạn nên phản ứng ra sao? Điều này thật hết sức đơn giản: bạn nên hành động bằng trí tuệ hay lương tri, không có sự thù hằn hay giận dữ. Nếu tình huống cũng không tốt dẫn bạn đến quyết định cần phải có loại hành động nào đó, thì về phần mình, bạn có thể – không chút sân hận – có biện pháp để phản hồi. Thật thế, những hành động như vậy – vốn tuân theo trí tuệ chân chính chứ không phải sự giận dữ – rất hữu dụng trong thực tế. Một biện pháp chống lại được đưa ra trong sự giận dữ thường dẫn đến những sai lầm. Với sự không sân si, không hận thù, chúng ta có thể thủ đắc một cách hiệu quả hơn.
Có một cách hành nhẫn khác vốn liên quan hữu thức đến việc gánh vác những khổ não của người khác. Tôi đang nghĩ đến những tình huống mà trong đó, bằng cách tham gia vào những hoạt động nào đó, chúng ta hiểu được những gian truân, khó nhọc và phiền trược mà mình phải chịu liên lụy trước mắt, nhưng trong thâm tâm chúng ta tin rằng những hành động này sẽ có một hệ quả ích lợi lâu dài. Do thái độ, sự cam kết lẫn lòng ước muốn tạo ra lợi ích lâu dài của chúng ta, nên đôi lúc tự chúng ta đứng ra đón nhận –một cách hữu ý và có cân nhắc – những gian khó và phiền lụy vốn phải vướng vào trong ngắn hạn.
Tôi dám hoàn toàn chắc chắn rằng nếu Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 này ít cười, có lẽ tôi sẽ chẳng có được mấy bạn bè ở khắp mọi nơi. Thái độ của tôi đối với người khác là luôn luôn nhìn họ ở bình diện con người. Trên bình diện đó, dẫu là tổng thống, nữ hoàng hay hành khất cũng chẳng có gì khác biệt, miễn là có sự xúc cảm thật lòng bằng một nụ cười trìu mến đầy tình người.
Trích: Trí Tuệ Ngời Sáng Trong Cuộc Sống
Đạt Lai Lạt Ma
Việt dịch: Huỳnh Văn Thanh
--------------------------------------
Tỉnh giác về cái chết
ành đã được dệt xong
Cuộc đời của con người cũng như vậy.
(Lời Phật Thích Ca).
Mọi người cần phải tỉnh giác về cái chết, đó là việc suy ngẫm rằng mình sẽ không sống lâu trên cõi đời này. Nếu không có ý thức về sự chết, người ta sẽ không biết lợi dụng kiếp người đặc biệt này mà mình đang có được. “Nhất thất nhơn thân, vạn kiếp bất phục”, có nghĩa là một khi thân này mất rồi thì vạn kiếp khó mà có lại được. Nên kiếp làm người này là có ý nghĩa vì do sống trong đời này con người có thể thành tựu được kết quả quan trọng mà mình mong muốn.
Phân tích sự chết không có nghĩa là để mình sợ chết, mà là để biết giá trị của đời người quý báu này, trong khi sống người ta có thể thực hành nhiều pháp môn quan trọng. Thay vì sợ chết, bạn cần phải suy ngẫm rằng khi cái chết đến gần, mình sẽ mất cơ hội tốt để tu tập. Như vậy suy ngẫm về sự chết sẽ mang lại thêm năng lực cho việc tu tập của bạn.
Bạn cần phải chấp nhận rằng sự chết là điều tất yếu trong cuộc đời này. Đức Phật đã khẳng định rằng “một nơi không có sự chết, là nơi không có thật, không có trên hư không, không có trong biển cả, cũng không có cả trong núi rừng”.
Nếu chấp nhận rằng sự chết là một phần của đời sống thì khi cái chết đến gần, bạn sẽ có thể đối diện nó dễ dàng hơn.
Khi mọi người biết một cách sâu xa ngay trong tâm mình rằng sự chết sẽ đến nhưng tránh suy nghĩ đến nó, rõ ràng là không hiểu biết và không có lợi ích. Điều này cũng đúng khi mọi người chấp nhận rằng tuổi già là một phần của cuộc đời, không muốn có tuổi già và tránh nghĩ về nó. Thái độ như vậy đưa đến sự không chuẩn bị về tâm trí và khi tuổi già đến, mọi thứ sẽ rất khó khăn.
Nhiều người đã già rồi nhưng vẫn làm như là mình còn trẻ lắm. Nhiều lần khi gặp lại những người bạn lâu năm, thí dụ như một số nghị sĩ ở những nước như Hoa Kỳ, tôi nói “chào ông bạn già”. Ý của tôi là chúng ta đã biết nhau từ lâu chứ tôi không nói tới chuyện ‘già nua’. Nhưng khi tôi chào như vậy, một số người đã chỉnh lại tôi một cách mạnh mẽ: “chúng ta không có già, chúng ta là bạn lâu năm”. Thực sự họ đã già, với những sợi lông đang mọc ra ở hai lỗ tai, một dấu hiệu của tuổi già, nhưng họ khó chịu với tuổi già. Như vậy là thiếu suy nghĩ về sự đời.
Tôi thường nghĩ về cuộc đời tối đa là một trăm năm của một đời người, mà so với tuổi thọ của Trái Đất này thì đời sống của con người có là bao. Trong một đời ngắn ngủi này, con người nên cố gắng sống cẩn thận không gây ra khổ đau cho mình và người khác. Đời sống này rất quý báu không nên tạo ra sự hủy diệt mà nên được dành cho những hoạt động có tính cách xây dựng, hay ít nhất cũng không làm tổn hại đến người khác hoặc gây khổ đau rắc rối cho họ. Như vậy những tháng năm ngắn ngủi của chúng ta như một du khách trên hành tinh này sẽ có ý nghĩa. Nếu một du khách đến thăm một nơi nào đó trong một thời gian ngắn mà gây ra nhiều rắc rối, như vậy là sai lầm. Nhưng nếu như một du khách, bạn làm cho người khác hạnh phúc trong khoảng thời gian hạn hẹp này, như vậy là khôn ngoan, và bạn rời khỏi nơi này để đến nơi khác bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc. Nếu bạn quậy phá, dù chính bạn không gặp khó khăn nào trong thời gian ở nơi này, nhưng bạn sẽ tự hỏi chính mình trong thời gian ở nơi đây mình đã làm được cái gì.
Cuộc đời một trăm năm, phần đầu là trẻ thơ, phần cuối là tuổi già, thường giống như một con vật, chỉ có ăn và lăn ra ngủ. Khoảng giữa kéo dài vài chục năm có thể sống một cách có ý nghĩa. Đức Phật nói: “Nửa cuộc đời người ta ngủ. Mười năm sống trong tuổi thơ. Hai mươi năm sống trong tuổi già. Trong mươi năm còn lại, đau buồn, than thở và lo nghĩ, chiếm nhiều thời gian, và hàng trăm thứ bệnh tật lấy đi nhiều thời gian hơn nữa”.
Để làm cho cuộc đời có ý nghĩa, hãy vui vẻ chấp nhận tuổi già và cái chết như một phần của cuộc đời mình. Mọi người gặp khó khăn nghĩ đến cái chết nhưng lại dễ dàng trong tham lam, gây thêm rắc rối, và có ý làm tổn hại người khác.
Chúng ta thấy những con người được xem là những nhân vật lớn, như các bậc vua chúa, xây những lâu đài và những tòa nhà cao ốc, chúng ta thấy rõ ràng trong tâm trí của họ cho rằng họ sẽ sống mãi trong cuộc đời này. Hậu quả của sự tự lừa dối này là có thêm đau khổ và thêm rắc rối cho nhiều người khác.
Đối với những người không tin có đời sống tương lai, việc suy ngẫm về thực tại cũng có ích lợi và có tính khoa học. Vì con người, tâm trí cũng như tất cả những hiện tượng đều có nhân duyên khác cùng thay đổi trong từng phút giây, điều suy ngẫm này dẫn đến khả năng phát triển bản thân theo hướng tốt. Nếu đời sống này không bao giờ đổi thay thì chúng ta sẽ mãi mãi chịu sự khổ đau. Khi ta biết rằng vạn vật luôn biến đổi thì dù ta đang trải qua một giai đoạn rất khó khăn, ta vẫn có thể tìm thấy niềm an ủi trong sự hiểu biết rằng tình trạng đó sẽ không như vậy mãi mãi. Vì vậy không có việc gì phải tuyệt vọng.
Vận mạng tốt cũng không trường cửu, và như vậy khi sự việc tốt đẹp đến với mình, mình không nên tham muốn quá nhiều. Ý tưởng cho rằng mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi là một sai lầm tai hại. Thí dụ, dù ta chấp nhận là có những kiếp sau, ta chỉ nghĩ đến hiện tại và xem tương lai ít quan trọng hơn. Như vậy ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội tốt khi cuộc sống của ta đang có thời giờ rảnh rỗi và những điều kiện thuận lợi để tu tập những pháp môn lợi ích. Sự hiểu biết rõ ràng về giáo lý vô thường luôn là điều tốt cho chúng ta.
Do nhận thức được đời sống là vô thường, con người có ý thức về kỷ luật và có sự nhiếp phục tâm trí của mình. Kỷ luật hay tu luyện không có nghĩa là cấm kỵ, mà có nghĩa là có sự giằng co giữa lợi ích dài hạn và lợi ích ngắn hạn, bạn hy sinh ích lợi ngắn hạn và chọn lợi ích dài lâu về sau. Đây là sự tự kỷ luật phát xuất từ sự có ý thức về luật nhân quả nghiệp báo. Thí dụ để cho bao tử của tôi hồi phục sau cơn bạo bệnh mới đây, tôi tránh dùng những thức ăn có chất chua và đồ uống lạnh dù những món này có vẻ ngon miệng và hấp dẫn. Loại kỷ luật này có mục đích phòng vệ. Cũng giống như vậy, việc suy ngẫm về sự chết đưa đến sự tự kỷ luật hay tự kiềm chế, tự phòng vệ, chứ không phải là sự trừng phạt.
Loài người có đủ tiềm năng để tạo ra những điều tốt, nhưng để có thể sử dụng trọn vẹn tiềm năng này, cần phải có sự tự do. Chủ nghĩa độc tài là chướng ngại cho sự phát triển này. Để bổ túc, tự do cá nhân có nghĩa là bạn không trông cậy vào một cái gì từ bên ngoài và không đợi chờ hiệu lệnh của người khác, mà bạn tự có sáng kiến. Vì vậy Đức Phật thường nói đến “giải thoát cá nhân”, có nghĩa là tự giải thoát, không qua một tổ chức nào. Mỗi cá nhân phải tạo dựng tương lai tốt đẹp cho chính mình. Tự do và chủ nghĩa cá nhân đòi hỏi phải có sự tự kỷ luật. Nếu những điều này bị lợi dụng cho những cảm xúc phiền não thì sẽ có những hậu quả tai hại. Tự do và sự tự kỷ luật phải đi đôi với nhau.
Mở rộng tầm mắt
Theo Phật Giáo thì mục tiêu cao nhất của mọi hành giả là đắc thành Phật quả để có năng lực cứu độ chúng sanh. Tuy nhiên, một mức thành tựu trung bình có thể giải thoát hành giả khỏi chu trình sinh, lão, bệnh và tử, đầy đau khổ, một mức thành tựu thấp hơn nhưng vẫn có giá trị ở chỗ làm cho các kiếp sống tương lai của hành giả thuận lợi hơn. Từ việc làm thay đổi các kiếp sống của mình cho tốt hơn, hành giả có thể đạt được giải thoát để rồi cuối cùng sẽ chứng thành Phật quả. Trước hết tầm mắt của bạn mở rộng bao gồm các kiếp tương lai, và rồi, do hiểu biết vận mạng của mình, tầm mắt của bạn mở rộng thêm, để bao gồm thêm các kiếp luân hồi. Sau cùng sự hiểu biết này có thể mở rộng đến những người khác, qua ý nguyện từ bi mong cho chúng sanh thoát khổ và loại trừ nguyên nhân đưa đến khổ đau. Lòng từ bi này là nền tảng thúc đẩy bạn phát nguyện tu tập để thành Phật.
Bạn phải có sự quan tâm đến những phương diện sâu hơn của đời sống để có ảnh hưởng đến các kiếp tương lai, hầu có thể hiểu trọn vẹn tính chất của khổ đau và kiếp luân hồi. Tiếp theo sự hiểu biết về luân hồi đau khổ này là điều kiện cần phải có để phát triển trọn vẹn lòng từ bi.
Những bất lợi của sự không có ý thức về sự chết
Biết rằng mình sẽ chết, đó là điều lợi ích. Tại sao? Nếu không có ý thức về sự chết, bạn sẽ không để ý đến việc tu tập mà chỉ sống một cách vô nghĩa, không tìm hiểu những thái độ và hành vi nào gây ra đau khổ và những loại nào đưa đến phúc lạc.
Nếu không nghĩ rằng mình có thể chết sớm, bạn sẽ rơi vào ảo tưởng thường tồn rằng “còn lâu mình mới chết” (I’ll die later on, later on). Khi đến lúc cuối cùng, dù có cố gắng thành tựu một điều giá trị nào đó, bạn sẽ không còn sức lực nữa. Nhiều người Tây Tạng gia nhập tu viện khi còn trẻ để học kinh điển, nhưng khi đến lúc tu tập thực sự thì khả năng của họ có phần thiếu hụt. Đó là vì họ không hiểu đúng giáo lý vô thường.
Nếu sau khi suy nghĩ về phương pháp tu tập, bạn quyết định áp dụng pháp tu nhập thất mấy tháng hay mấy năm, như vậy bạn đã ứng dụng được nhận thức về lý vô thường của mình. Nhưng nếu quyết định mau chóng đó không được duy trì bởi việc quán niệm tính chất hủy diệt của vô thường thì việc tu tập của bạn sẽ nhạt phai đi. Đó là lý do có những người nhập thất nhiều năm nhưng việc tu tập không có ảnh hưởng gì đến đời sống của họ sau đó. Quán niệm vô thường không những thúc đẩy việc tu tập của bạn mà còn tiếp thêm năng lượng cho bạn nữa.
Nếu có ý thức mạnh về tính tất yếu và tính bất ngờ của cái chết thì bạn vận động được từ bên trong, giống như có một người bạn cảnh cáo mình vậy, “hãy cẩn thận, hãy thành tâm, một ngày nữa đã trôi qua” (Be careful, be earnest, another day is passing).
Có thể bạn xuất gia sống trong tu viện. Như vậy bạn đã có pháp danh và y phục của người tu sĩ. Bạn sẽ có những hoạt động bận rộn ít hơn. Bạn sẽ thay đổi thái độ với đời sống, hướng sự chú tâm của mình đến những mục tiêu xa hơn. Còn bằng ngược lại bạn tiếp tục bận tâm đến những chuyện phù phiếm của thế gian như ăn ngon, mặc đẹp, ở chỗ sang trọng, nói chuyện nhảm nhí, có nhiều bè bạn và người thân quen, kể cả tạo ra nhiều kẻ thù nếu có ai đó làm điều gì mà bạn không thích và đưa đến xung đột và rồi tranh chấp với nhau, như vậy bạn không có gì tốt hơn trước đây, lúc chưa xuất gia, và có lẽ còn tệ hơn trước đó nữa. Nên nhớ, nếu chỉ tránh những sinh hoạt phù phiếm vì sợ các bạn đồng tu đánh giá thấp mình thì cũng chưa đủ, mà phải có sự chuyển hóa từ bên trong. Điều này đáng cho chư vị tăng ni cũng như người cư sĩ tại gia ghi nhớ và áp dụng vào việc tu tập. Có lẽ bạn đã quen có ý tưởng thường tồn, nghĩ rằng mình còn lâu mới chết và khi còn sống, cần phải có những thú vui thông thường như người khác. Do muốn hưởng thụ trong đời sống hiện tại, dù ít có ý nghĩa lâu dài, bạn sẵn sàng dùng những phương tiện thiếu đạo đức để có được những gì mình muốn, như cho vay lấy lãi cắt cổ, lợi dụng bạn bè, kiện tụng… để có nhiều hơn những nhu cầu lợi dưỡng cho đời sống. Vì bạn đã chọn lối sống như vậy nên tiền bạc trở nên hấp dẫn hơn là học đạo lý, và ngay cả khi bạn muốn tu tập, bạn cũng không chú ý nhiều đến việc ấy. Nếu một trang sách rơi xuống đất, có thể bạn ngần ngại lượm nó lên, những nếu một tờ giấy bạc rơi xuống đường thì sự việc lại khác đi. Nếu gặp những người đã cống hiến cuộc đời mình cho những mục tiêu sâu xa, có thể bạn nghĩ tốt về sự cống hiến đó, nhưng chỉ có thế thôi. Còn nếu bạn gặp một người mặc quần áo sang trọng, phô bày sự giàu có, có thể bạn sẽ khởi tâm thèm muốn, bạn cầu mong mình cũng sẽ được như vậy, và rốt cuộc bạn sẽ làm bất cứ điều gì để đạt được mục đích tham muốn ấy.
Một khi bị lôi cuốn vào dòng chảy phù hoa của đời sống trần tục, những cảm xúc phiền não tham lam, sân hận, si mê, ganh tị, kiêu ngạo của bạn sẽ gia tăng, và đưa đường dẫn lối cho bạn tạo thêm ác nghiệp. Những cảm xúc phiền não này chỉ gây rắc rối, làm cho bản thân và những người xung quanh rơi vào tình trạng khó chịu. Dù có thể bạn đã biết chút ít về việc tu tập, nhưng bạn vẫn tích lũy thêm của cải vật chất và liên can với nhiều người hơn, rốt cuộc có thể nói bạn đang thực hành những chuyện phù phiếm của thế gian này, khởi tâm tham ái đối với những người mà bạn có cảm tình, và khởi tâm sân hận đối với những người mà bạn không ưa, và bạn tìm cách để theo đuổi những cảm xúc não phiền này. Khi đã đến chỗ này, dù có nghe nói về những pháp tu chân chánh, bạn cũng sẽ lưỡng lự và bỏ qua. Suốt kiếp luân hồi từ vô thỉ cho đến ngày nay, bạn đã quen có những xúc cảm phiền não, nhưng bây giờ bạn có thêm pháp phù phiếm. Như vậy tình trạng trở nên tệ hại hơn, làm cho bạn xa cách với những gì thực sự ích lợi hơn.
Bị lôi kéo bởi sự tham muốn, bạn sẽ không bao giờ tìm thấy sự hài lòng. Bạn không làm cho người khác hạnh phúc, và chắc chắn không làm cho chính mình hạnh phúc. Khi trở nên vị kỷ hơn với những cái “của mình” thì bất cứ người nào can thiệp vào cũng tức khắc trở nên mục tiêu giận dữ của bạn. Dù bạn xem trọng những người bạn thân của mình và những người thân của mình, nhưng họ không thể giúp gì cho bạn lúc sinh ra và lúc mình qua đời.
Bạn ra đời một mình và rồi sẽ ra đi một mình. Nếu vào ngày bạn qua đời, một người bạn có thể đi cùng thì sự bám giữ vào bạn bè có giá trị, nhưng không thể có chuyện đó. Khi bạn tái sanh trong một hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ, nếu những người bạn trong kiếp trước có thể giúp đỡ một điều gì đó thì cũng là một sự liên hệ có giá trị, nhưng sự kiện này không thể xảy ra. Vậy mà trong khoảng thời gian giữa lúc ra đời và lúc chết, kéo dài mấy chục năm, những người bạn đó là “bạn của mình”, “anh chị em của mình”. Sự chấp thủ không đúng chỗ này đã không đưa đến lợi ích gì cả, mà chỉ tạo thêm tham sân si mà thôi.
Khi quá tham ái với những người mình ưa thích và cũng quá sân hận với những người mình ghét. Khi sinh ra đời, bạn không biết ai là ai hết. Dù tất cả chúng ta đều muốn có hạnh phúc và không muốn đau khổ, nhưng bạn vẫn thích một số người và nghĩ “họ là bạn của mình” và ghét một số người “những người này là kẻ địch của mình”. Bạn gắn nhãn hiệu và biệt danh cho họ rồi khởi tâm tham ái hoặc sân hận. Như vậy thì có giá trị gì? Không có giá trị gì cả. Vấn đề ở đây là mình dành quá nhiều năng lực cho những chuyện phù phiếm của cuộc đời này. Những giá trị tâm linh lớn lao lại bị bỏ quên trước những điều nhỏ nhen như thế.
Nếu bạn không tu tập, và khi sắp qua đời bạn được vây quanh với những người bạn và những người đã làm việc cùng với bạn, thay vì có một người nào đó nhắc nhở bạn về việc tu tập tâm linh, đạo đức, rõ ràng chính bạn đã mang lại sự rắc rối cho mình. Sự sai lầm này của bạn là bạn không có ý thức về vô thường.
Lợi ích của tỉnh giác về giáo lý vô thường
Tuy nhiên, nếu bạn phải đợi đến giờ phút cuối mới thấm thía sự thật rằng mình sẽ chết, và bạn nhận định một cách thực tế tình trạng của mình ngay bây giờ, bạn sẽ không bị chi phối bằng những mục tiêu phù phiếm nữa. Bạn sẽ không lơ đễnh với những mục tiêu quan trọng lâu dài. Bạn nên quyết định ngay từ đầu là mình sẽ chết, và hãy tìm hiểu những điều giá trị thực sự. Nếu ghi nhớ là đời sống trôi qua rất nhanh, bạn sẽ trân quý thời gian và sẽ làm những gì có giá trị. Với ý thức mạnh mẽ về sự chết tất yếu sẽ đến với mình, bạn sẽ thấy mình cần phải tu tập, chuyến hóa tâm trí, và không lãng phí thời giờ với những thú vui từ ăn uống đến chuyện phiếm về chiến tranh, những cuộc tình lãng mạn và về đời tư của người khác.
Hết thảy chúng sanh đều muốn mình hạnh phúc và không muốn khổ đau. Chúng ta dùng nhiều kỹ thuật khác nhau để giải trừ những đau khổ lớn cũng như nhỏ. Loài người chúng ta biết thực hành những phương pháp tu tập sớm trong đời của mình để tránh đau khổ về sau. Trong cuộc đời, những người có tu và những người không tu đều tìm cách giảm bớt một số nỗi khổ và giải trừ những nỗi khổ khác, có khi còn dùng sự đau đớn nhỏ làm phương tiện vượt qua đau khổ lớn và đạt được một loại hạnh phúc nào đó.
Mọi người đều cố gắng loại trừ đau đớn bên ngoài, nhưng có một phương pháp khác để giải trừ đau khổ ở mức sâu xa hơn, nhắm tới việc giảm thiểu hay diệt trừ đau khổ trong những kiếp tương lai, và hơn nữa, giải trừ tất cả mọi hình thức đau khổ cho chính mình cũng như cho chúng sinh. Phương pháp này gọi là tu tập tâm linh.
Những phương pháp này bao gồm sự điều chỉnh thái độ. Như vậy, về căn bản, tu tập có nghĩa là điều chỉnh tốt ý nghĩ của mình. Trong tiếng Sanskrit, tu tập tâm linh được gọi là “Dharma”, nghĩa là “cái nắm giữ”. Điều này có nghĩa là do điều chỉnh những thái độ xấu, bạn thoát khỏi một mức khổ đau và như vậy được “giữ lại” khỏi sự đau khổ đó. Việc tu tập tâm linh này có công năng bảo vệ bản thân mình và người khác, khỏi rơi vào hố sâu của sinh tử khổ đau.
Từ việc đầu tiên hiểu tình trạng của mình trong vòng luân hồi và tìm cách giữ mình lại khỏi đau khổ, bạn truyền đạt sự chứng ngộ của mình cho người khác và phát khởi lòng từ bi, tức là nguyện cứu giúp chúng sinh thoát khổ. Dù chỉ là một sinh linh, bạn có lý do chính đáng để chọn con đường giúp đỡ nhiều sinh linh khác, nhưng cũng có một điều khác, đó là do chú tâm đến lợi ích của người khác, chính bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn. Có lòng từ bi, bạn sẽ bớt sự đau khổ của chính mình và gia tăng sức mạnh nội tâm.
Để tôi kể cho bạn nghe về một thí dụ nhỏ, mới đây tôi ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), tôi bị bệnh nhiễm trùng đường ruột mãn tính. Trên đường đến bệnh viện tôi cảm thấy rất đau, và đổ nhiều mồ hôi. Xe của chúng tôi đi qua khu vực núi Kên Kên (tức là Linh Thứu Sơn) và ở vùng này dân làng rất nghèo. Nói chung thì Bihar là một tiểu bang nghèo, nhưng nghèo nhất là vùng này. Tôi không trông thấy một trẻ em đi học. Chỉ có sự nghèo khổ và bệnh tật. Tôi nhớ rất rõ một bé trai bị bại liệt, đeo những thanh kẹp kim loại rỉ sét ở hai chân và hai tay chống nạng. Rõ ràng là không có ai trông em bé. Tôi rất xúc động. Một chỗ khác, tôi thấy có một ông già ở một quán trà bên đường, chỉ mặc một mảnh vải bẩn, té xuống đất, và nằm luôn ở đó chứ không có ai giúp đỡ đứng dậy. Sau đó tôi được đưa vào bệnh viện, tôi cứ nghĩ ngợi về những gì mình vừa trông thấy, suy ngẫm rằng thật đáng buồn khi ở đây tôi được nhiều người săn sóc, còn những người khốn khổ ngoài kia thì không có ai. Tôi nghĩ đến điều đó và quên đi nỗi đau của mình. Dù mồ hôi đang đổ ra, tôi chỉ nghĩ đến những người khác.
Như vậy dù thể xác của tôi chịu nhiều đau đớn (có một lỗ thủng ở đường ruột) và tôi không thể ngủ được, tâm trí của tôi đã không lo sợ. Nếu tôi đã chú tâm vào bệnh tật của mình thì chỉ làm cho tình trạng tệ hại hơn mà thôi. Đây là một ví dụ từ kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi về thái độ từ bi có ích lợi cho cả bản thân, làm quên đi phần nào sự đau đớn thể xác của mình, làm bớt lo sợ, dù người khác không nhận được sự lợi ích trực tiếp.
Lòng từ bi giúp cho chúng ta có thêm sức mạnh, và với sự can đảm đó, chúng ta sẽ an tĩnh nhẹ nhàng hơn. Khi tầm mắt rộng mở của chúng ta bao gồm cả sự thống khổ của vô số chúng sanh, thì sự đau khổ của bản thân mình có vẻ quá bé nhỏ.
Nguồn: Advice on Dying and living a Better life
Bài giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Thích Nguyên Tạng dịch
-----------------------------------------------------------------
Tu tập để t©m an định
Viết bởi Tuệ Dũng
Hỏi: Vẻ bên ngoài của con rất điềm tỉnh nhưng bên trong thường không yên, vọng tưởng nổi lên như sóng cồn. Cầu mong đạo sư chỉ dạy cho con pháp môn tu tập giúp cho tâm con được an định.
Garchen Rinpoche:
Đối với những hành giả sơ căn mới bước trên con đường tu tập thì cách tốt nhất là suy gẫm và quán chiếu về Bốn Tư Tưởng Chuyển Tâm. Bốn Tư Tưởng Chuyển Tâm đó là:
(1) thân người hiếm quý khó tìm, với đầy đủ thuận duyên để có thể bước đi trên con đường đạo
(2) nhân quả
(3) vô thường
(4) những khiếm khuyết của cõi ta bà
Tất cả những vọng tưởng đều phát xuất từ tâm vị kỷ. Gốc rễ của mọi vọng tưởng là do chấp ngã. Nếu con chấp ngã càng nhiều thì những xúc cảm ô trược và vọng tưởng trong con sẽ càng trở nên ào ạt. Khi càng quán chiếu về Bốn Tư Tưởng Chuyển Tâm thì sẽ càng hiểu được rằng tâm vị kỷ và chấp ngã là điều sai trái, tạo thêm ý nghiệp, làm cho con thêm phiền não, đánh mất đi thời giờ tu tập quý báu mà thôi. Hiểu được như vậy rồi thì con sẽ thực tập vị tha. Khi bớt chấp ngã và tâm vị kỷ không còn mãnh liệt thì vọng tưởng cũng sẽ dần lắng xuống vì những phiền não sẽ không dễ nổi lên, hoặc nếu có nổi lên thì cũng sẽ được nhận diện để chặt đứt đi ngay tức khắc.
Đối với những hành giả trung căn thì phải luôn luôn nuôi dưỡng và thực hành Bồ Đề tâm, là tâm nguyện cao cả hy sinh cho người khác, luôn luôn quên mình mà xả thân làm những công việc lợi lạc cho chúng sinh, cùng với ý nguyện muốn đắc quả giác ngộ cũng vì lợi lạc cho chúng sinh. Các con phải luôn luôn cố gắng nuôi dưỡng một tâm lành. Tâm tốt lành hay tâm hòa nhã là điều mà đức Đạt Lai Lạt Ma thường xuyên nhắc nhở chúng ta. Khi tâm lành và tâm hòa nhã được nuôi dưỡng trong mỗi một phút giây thì vọng tưởng cũng sẽ dần dần giảm thiểu.
Riêng đối với các hành giả thượng căn thì các con phải quán chiếu để hiểu về bản chất của tâm, về bản chất của các xúc cảm của tâm ô trược. Tâm ô trược hay các xúc cảm phiền não không khác chi những cơn sóng ồ ạt trong biển cả. Sóng chính là biển, biển không thể không có sóng. Sóng không khác biển. Cả hai đều hợp nhất. Cũng thư thế, vọng tưởng không nằm ngoài chân tâm. Vọng tưởng và chân tâm trên thực chất chỉ là một. Khi sóng tan đi, thì tan đi về đâu? Không đi đâu cả. Sóng trở thành biển. Sóng và biển hợp nhất.
Khi các con thực tập yêu thương, luôn quan hoài đến kẻ khác trong tinh thần vô chấp thì đó chính là tình yêu tối thượng không gì sánh bằng. Khi trong tâm lúc nào cũng chan hòa tình yêu thương tối thượng thì sân hận sẽ giảm thiểu, đố kỵ sẽ giảm thiểu, vọng tưởng sẽ giảm thiểu. Nguồn gốc đưa chúng sinh đọa vào các cõi thấp chính là tâm sân hận và tâm oán ghét. Do đó, ngay cả bây giờ có phải mất mạng đi nữa thì các con cũng không được phát tâm sân hận hay oán ghét một ai, tuyệt đối không được xoay lưng với tình yêu thương! Đây chính là những phẩm hạnh cao cả của giác ngộ.
Cái gì có thể giúp các con thực hành được những điều trên? Chánh niệm và tỉnh thức có thể giúp được các con. Khi tâm sân vừa lóe lên, thì hãy ngay lập tức lấy chánh niệm ra để dập tắt. Rồi sau đó, hãy tỉnh giác và quán chiếu xem cơn giận này từ đâu đến, do đâu mà ra. Hãy cố gắng nhìn vào bản chất của cơn giận. Cơn giận này có thật hay không có thật? Thực chất của cơn giận nằm ở đâu? Hay cũng chỉ là duyên khởi nên trong cơn giận, hãy nhận ra được tánh Không. Nếu các con chịu khó giữ chánh niệm và quán chiếu sâu sắc trong mỗi một phút giây thì một ngày kia, các con sẽ tự giải thoát mình ra được hết tất cả các vọng tưởng và xúc cảm ô trược.
Đức Jigten Sumgon [vị tổ khai sáng dòng truyền thừa Drikung Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng] đã từng nói: Tất cả chư Phật đều nằm trong tâm của chúng sinh.
Điều này có nghĩa là chư Phật trong ba đời phát xuất từ chính sự thực hành chánh niệm và tỉnh giác của chúng sinh. Tâm của Phật và tâm của chúng sinh cùng một bản chất. Khi thực hành chánh niệm và tỉnh giác thì các con sẽ biết được đâu là sai, đâu là đúng. Từ đó, trí tuệ nảy sinh. Khi trí tuệ nảy sinh thì các xúc cảm ô trược và vọng tưởng sẽ được tiêu trừ ngay từ trong trứng nước.
Thật ra, tâm của Phật và tâm của chúng sinh cùng một bản chất, cùng là nước. Nhưng tâm của Phật giống như nước trong văn vắt, trong khi tâm của chúng sinh thì giống như nước bùn đục ngầu. Bùn đục trong tâm của chúng sinh chính là những xúc cảm ô trược và vọng tưởng, là tâm chấp ngã, bám víu vào cái ta hư huyễn. Dù là như vậy nhưng bùn đục này cũng đâu có nằm ngoài nước, đâu có tách rời khỏi nước? Giống như những xúc cảm ô trược và vọng tưởng cũng không nằm ngoài tâm, không tách biệt khỏi tâm nhưng khi biết cách thanh tịnh hóa thì bùn dơ sẽ lắng xuống, nước trong sẽ trồi lên.
Nếu ngày hôm nay, các con biết quán chiếu để giúp cho bùn dơ lắng xuống và để cho nước trong trồi lên thì mỗi ngày mỗi chút, mối tháng mỗi chút, mỗi năm mỗi chút, bùn cạn sẽ càng lắng và phía trên mặt nước sẽ chỉ còn toàn nước trong. Đến một lúc nào đó, khi tâm tỉnh giác của các con hoàn toàn sáng ngời và mãnh liệt nhất, đó là khi các con sẽ thành đạt Phật quả.
Đức Phật đã giảng dạy 84.000 pháp môn, nhưng các con chẳng nên lo lắng có quá nhiều pháp môn [chẳng hạn nên theo pháp môn nào]. 84.000 pháp môn đó cũng không nằm ngoài hai chân lý huyền diệu, là tục đế và chân đế, là sự thật tương đối và sự thật viên mãn. Sự thật thứ nhất là sự thật tương đối, là tình yêu thương, lòng quan hoài vô chấp, vô vị kỷ đến vô lượng chúng sinh. Đây chính là tâm Bồ Đề tương đối, là tâm tốt lành, tâm hòa nhã, tâm từ ái. Nhưng muốn thực hành được tâm Bồ Đề tương đối thì các con cần có một hiểu biết đúng đắn về nhân quả! Còn sự thật thứ nhì, sự thật viên mãn là dùng chánh niệm và tỉnh giác để quán chiếu trực nhận tánh Không, trực nhận vô ngã. Khi trực nhận vô ngã thì Bồ Đề tâm sẽ viên mãn như trăng tròn. Chỉ cần các con thực hành sâu sắc hai chân lý huyền diệu này là các con đã thực hành hết 84.000 pháp môn của đức Phật rồi.
Garchen Rinpoche Việt dịch: Liên Hoa
----------------------------------------------------------------
Đau khổ
Viết bởi Tuệ Dũng
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa là chúng ta không quan tâm đến những cảm xúc đó. Tôi biết rằng trường dạy Tâm Lý Học ở Tây Phương người ta thường khuyến khích việc bày tỏ những cảm giác và xúc cảm, ngay cả những cảm xúc tức giận.
Chắc hẳn có nhiều người đã gặp phải những nỗi đau buồn trong quá khứ của họ, nếu những cảm xúc này bị dồn ép, chúng có thể tạo nên sự tác hại tâm lý lâu dài. Trong những trường hợp như vậy, nói theo cách nói của người Tây Tạng: “khi vỏ sò khép kín, muốn làm sạch sẽ nó, cách tốt nhất là thổi vào nó”.
Do đó, tôi nghĩ rằng điều quan trọng cho những ai muốn tu tập có kết quả cần tự mình kiềm chế chống trả lại những cảm xúc tai hại như sự tức giận, lòng tham luyến, và tính ganh ghét. Thay vì theo đuổi những tình cảm tiêu cực, chúng ta nên cố gắng giảm thiểu sự lôi cuốn hướng về chúng.
Nếu chúng ta tự hỏi bản thân là khi nóng giận, chúng ta sẽ hạnh phúc hơn hay lúc chúng ta điềm tĩnh thì câu trả lời thực rõ ràng. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, sự rối loạn tinh thần là do kết quả gây nên bởi những cảm xúc đau khổ khiến nội tâm bị xáo trộn và chúng ta cảm thấy bất an cũng như phiền não.
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâm và nỗ lực tu tập trong một thời gian dài và theo cách nói của những người Phật tử chúng ta là có thể nhiều kiếp trong tương lai.
Như chúng ta đã thấy, những nổi khổ đau tinh thần không bao giờ biến mất, chúng cũng không dễ dàng tiêu tan theo thời gian. Chúng chỉ chấm dứt khi tâm chúng ta nỗ lực hủy diệt, làm giảm khả năng tác hại và cuối cùng hoàn toàn loại bỏ chúng.
Nếu chúng ta muốn thành công, chúng ta phải biết chiến đấu chống lại những cảm xúc đau khổ đó. Chúng ta bắt đầu thực hành giáo pháp của đức Phật, bằng cách tìm đọc kinh sách và lắng nghe sự chỉ dạy của các bậc thầy kinh nghiệm. Ðiều này giúp chúng ta cải thiện hoàn cảnh khó khăn trong vòng lẩn quẩn khổ đau của đời sống và hiểu rõ phương pháp tu hành để vượt thoát khỏi cảnh phiền não ấy.
Qua việc nghiên cứu học tập như vậy chúng ta sẽ có được “những hiểu biết nhờ lắng nghe”. Nó cũng là nền tảng cần thiết cho sự phát triển tâm linh. Sau đó, chúng ta nên triển khai những điều chúng ta đã học hỏi được đến một nhận thức sâu sắc hơn. Hành động này mang lại cho chúng ta có được “những hiểu biết nhờ sự quán chiếu”. Một khi chúng ta đã chọn lựa một chủ đề, chúng ta tập trung thiền quán vào đó cho đến lúc tâm chúng ta hòa nhập với nó. Ðiều này sẽ mang đến cho chúng ta một kiến thức kinh nghiệm gọi là “những hiểu biết nhờ thiền định”.
Ba trình độ hiểu biết trên rất cần thiết trong việc làm thay đổi thực sự cuộc sống của chúng ta. Với những hiểu biết qua nghiên cứu học tập niềm tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn, mang lại sự thấu triệt thông suốt về thiền định.
Nếu chúng ta thiếu những hiểu biết có được nhờ nghiên cứu học tập và suy niệm thì dù có chuyên tâm thiền định, chúng ta cũng sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong chủ đề chúng ta đang thiền định. Ðó là bản chất vòng lẩn quẩn sự khổ đau của chúng ta. Ðiều này cũng giống như là chúng ta bị ép buộc phải gặp một người mà chúng ta không muốn gặp. Do đó, điều quan trọng là chúng ta cần phải cố gắng thực hiện được ba trình độ hiểu biết này liên tục với nhau.
Hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng nhiều đến chúng ta. Chúng ta cần có một nơi yên tĩnh để tu tập. Ðiều thiết yếu nhất là chúng ta nên hành thiền nơi vắng vẽ. Nhờ vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị xáo trộn và phiền não.
Kẻ Thù Nguy Hiểm Nhất
Việc thực hành Phật Pháp của chúng ta phải là một sự tinh tấn lâu dài nhằm đạt mục đích thoát khỏi những điều đau khổ. Nó không đơn thuần là một hành vi đạo đức nhờ đó chúng ta tránh được các hành động tiêu cực và phát huy những việc làm tích cực.
Trong khi hành trì tu tập, chúng ta cố gắng tìm cách vượt qua hoàn cảnh mà tất cả chúng ta đều nhận thấy là nạn nhân của những đau khổ tinh thần - kẻ thù của sự bình an và thanh thản. Những khổ đau này - như là sự luyến ái, tức giận, tính kiêu ngạo và lòng tham v.v.. là những trạng thái tinh thần khiến chúng ta hành động tạo ra các phiền não và đau khổ cho bản thân mình.
Vào lúc tu tập nhằm đạt đến sự an lạc và hạnh phúc trong tâm hồn, chúng ta nên xem chúng như là ma quỷ, bởi vì giống như ma quỷ, chúng có thể ám ảnh chúng ta và mang đến cho chúng ta những điều khổ đau. Trạng thái vượt ra khỏi những cảm xúc và ý nghĩ tiêu cực, cũng như mọi nỗi buồn phiền âu lo gọi là Niết Bàn (Nirvana).
Ðầu tiên, chúng ta không thể chiến đấu trực tiếp với những sức mạnh tiêu cực trên. Chúng ta phải từ từ đến gần chúng. Trước hết chúng ta nên áp dụng giới luật, chúng ta kiềm chế để khỏi bị tràn ngập bởi những ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực này. Chúng ta hành động như vậy bằng cách chọn một cuộc sống đạo đức.
Theo Phật giáo, điều ấy có nghĩa là chúng ta nên cố gắng giữ gìn không làm mười điều ác nơi thân gồm có sát sanh hay trộm cắp; khẩu nghiệp ở miệng tức nói dối và nói lời đâm thọc cùng các việc làm ác phát xuất từ ý nghiệp như lòng tham, sự tức giận và hận thù.
Khi nghĩ tưởng đến các hành vi bất thiện trên, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những cảm xúc như lòng quyến luyến đắm say - đặc biệt là tánh nóng giận và lòng thù hận là những cảm xúc rất tai hại khi chúng xuất hiện nơi chúng ta và nhiều kẻ khác. Người ta có thể nói rằng những xúc cảm này là một sức mạnh thực sự phá hoại trên thế gian hiện nay. Chúng ta cũng có thể bảo rằng phần lớn mọi phiền não và khổ đau mà chúng ta gặp phải, căn bản chúng ta đã tự tạo, đều hoàn toàn xuất phát từ những cảm xúc tiêu cực nói trên. Thực vậy tất cả mọi nỗi khổ đau đều là hậu quả trực tiếp của những cảm xúc tiêu cực này như sự quyến luyến, lòng tham, tánh ganh ghét, kiêu ngạo, sự tức giận và hận thù.
Mặc dù ngay từ đầu chúng ta không thể tận diệt hết những cảm xúc tiêu cực, nhưng ít ra cũng không hành động theo chúng. Từ đây, chúng ta nỗ lực phát triển sự tu tập thiền định của mình để trực tiếp chống lại những khổ đau nội tâm và luyện tập sâu sắc đức tính từ bi của chúng ta. Sau cùng, chúng ta cần diệt trừ hết mọi nổi khổ đau, bằng cách nhận thức rõ cuộc đời vốn là không.
Lòng Từ Bi
Lòng Từ Bi là gì? Lòng Từ Bi là điều mong ước mọi người khác không còn đau khổ. Nhờ thực hành tâm từ bi chúng ta đạt đến sự giác ngộ. Lòng từ bi khích lệ chúng ta thực hành những việc làm đạo đức nhằm hướng đến quả vị thành Phật. Do đó, chúng ta cần nỗ lực tinh tấn phát triển tâm từ bi.
Sự Thông Cảm
Bước đầu tiên để có được lòng từ bi là chúng ta nên thông cảm xót thương hoặc sống gần gũi với người khác. Chúng ta cũng phải thấu hiểu những hoàn cảnh khổ đau của họ. Càng sống gần gũi với một người nào đó, chúng ta càng nhận thấy sự đau khổ không chịu đựng nỗi của kẻ ấy. Sự gần gũi mà tôi nói ở đây không phải là sự gần gũi về thể xác, cũng không phải là sự gần gũi về tình cảm. Ðó là ý thức trách nhiệm, sự quan tâm của chúng ta đến mọi người.
Ðể phát huy sự gần gũi như vậy, chúng ta cần bày tỏ tấm lòng đạo đức muốn thương yêu tất cả mọi người. Chúng ta phải nhận thức rằng sự gần gũi sẽ giúp cho tâm con người an lạc và hạnh phúc. Chúng ta cũng hiểu mọi người sẽ kính trọng và mến yêu chúng ta biết bao khi chúng ta đối xử tốt với họ.
Chúng ta cần suy nghĩ đến những khuyết điểm của tánh tự cao tự đại, nhận thức rằng nó gây ảnh hưởng xấu đến các hành động vô đạo đức của chúng ta ra sao và sự giàu sang hiện nay của chúng ta đã tước đoạt nhiều quyền lợi của những người kém may mắn như thế nào.
Việc quan trọng là chúng ta nên bày tỏ lòng thương yêu đối với mọi người. Ðiều này là kết quả của hành động tu tập đức tính hỷ xả và thông cảm. Chúng ta cần nhận biết rằng tài sản của chúng ta tùy thuộc vào sự hợp tác và đóng góp của nhiều người khác. Mọi khía cạnh phúc lợi hiện nay của chúng ta là do sự nỗ lực làm việc của mọi người.
Khi chúng ta nhìn xung quanh mình, ngôi nhà chúng ta đang ở, con đường mà chúng ta đi, quần áo chúng ta mặc, thực phẩm mà chúng ta ăn, chúng ta phải hiểu rằng tất cả các thứ này đều do mọi người làm ra. Không có cái gì tồn tại cho chúng ta thụ hưởng và sử dụng mà không xuất phát từ lòng tốt của nhiều người vô danh đã giúp chúng ta. Khi chúng ta suy nghiệm theo cách này, lòng cảm mến của chúng ta đối với mọi người sẽ phát triển, sự thông cảm và gần gũi với họ cũng tăng lên.
Chúng ta phải ý thức rõ sự nương tựa, tùy thuộc của chúng ta vào những người mà chúng ta cảm thấy thương yêu. Sự nhận thức này giúp chúng ta gần gũi với họ hơn. Nó đòi hỏi sự quan tâm đến những người khác hơn là nghĩ đến bản thân mình. Chúng ta phải nhận thấy rằng tác động ảnh hưởng to lớn của chúng đối với nguồn phúc lợi hạnh phúc của mọi người. Khi chúng ta chống trả lại cái nhìn thế giới với tánh ngã mạn kiêu căng của mình, chúng ta có thể thay thế vào đó là một thái độ biết tôn kính mọi người. Chúng ta cũng không nên mong chờ sự thay đổi nhanh chóng cái nhìn của chúng ta đối với những kẻ khác.
Nhận Ra Sự Ðau Khổ Của Mọi Người
Sau khi phát triển sự thông cảm và gần gũi, hành động quan trọng tiếp theo là tu tập hạnh từ bi để hiểu rõ bản chất của sự khổ đau. Lòng từ bi của chúng ta đối với mọi chúng sinh phải xuất phát từ nhận thức nỗi đau khổ của họ. Ðiều đặc biệt khi nghĩ tưởng đến sự khổ đó là nó có khuynh hướng trở nên mạnh mẽ và hiệu quả hơn nếu chúng ta tập trung vào chính đau khổ của chúng ta rồi sau đó mở rộng nghĩ đến sự đau khổ của những người khác. Lòng từ bi của chúng ta đối với mọi người sẽ phát triển khi sự nhận biết của chúng ta về nỗi đau khổ của họ tăng lên.
Tất cả chúng ta hẳn nhiên có thiện cảm với những người đang chịu đựng sự khổ đau về bệnh tật hoặc buồn khổ khi gặp cảnh mất mát người thân. Loại đau khổ này theo Phật giáo gọi là “khổ khổ” hay nổi khổ của sự khổ.
Người có lòng từ bi xót thương những kẻ khổ đau mà Phật giáo gọi là “nỗi đau khổ của sự đổi thay” thì khó khăn hơn. Ðây là loại khổ đau thứ hai. Khi chúng ta nhìn thấy mọi người thích thú với những thành công trần tục đó, thay vì cảm thấy xót thương vì chúng ta biết rằng niềm vui ấy cuối cùng rồi sẽ chấm dứt và bỏ lại cho họ với những nỗi thất vọng chán chường, thường thì phản ứng của chúng ta cảm thấy ngưỡng mộ và đôi khi là ganh ghét.
Nếu chúng ta thực sự thấu hiểu về nỗi khổ và bản chất của nó, chúng ta sẽ nhận biết rằng danh tiếng cũng như của cải đều là tạm bợ và niềm vui cuối cùng sẽ phải tự nhiên kết thúc, để rồi gây khổ đau cho con người.
Có một loại đau khổ thứ ba sâu sắc hơn và tinh vi nhất. Chúng ta thường xuyên chịu đựng sự đau khổ này, nó là sản phẩm của cái vòng lẩn quẩn. Bản chất của nó là cuộc sống lẩn quẩn mà chúng ta chịu ảnh hưởng liên tục của những cảm xúc và ý nghĩ tiêu cực. Và khi chúng ta dưới sự kiểm soát của nó, cuộc sống của chúng ta là một hình thức đau khổ.
Loại đau khổ này ngập tràn cuộc sống của chúng ta, quay chúng ta trong cái vòng lẩn quẩn của những cảm xúc tiêu cực và các hành động vô đạo đức. Tuy nhiên, hình thức đau khổ này rất khó nhận ra. Nó không phải là trạng thái đau khổ rõ rệt mà chúng ta gặp phải ở loại “đau khổ trong khổ đau”. Nó cũng không phải là điều ngược lại của sự giàu sang và danh vọng như chúng ta tìm thấy trong “đau khổ của sự đổi thay”. Nhưng sự đau khổ tỏa khắp này là loại khổ đau sâu sắc nhất. Nó ngập tràn trong mọi khía cạnh của cuộc đời.
Một khi chúng ta trau giồi được sự thấu hiểu sâu sắc về ba mức độ đau khổ này qua chính kinh nghiệm bản thân của chúng ta, dễ dàng cho chúng ta tập trung tìm hiểu và nhận ra được ba mức độ đau khổ của nhiều người. Từ đó, chúng ta có thể phát triển lòng ước mong mọi người thoát khỏi sự khổ đau.
Một khi chúng ta kết hợp được ý nghĩ cảm thông với mọi người với sự thấu hiểu sâu sắc về nỗi khổ đau mà họ chịu đựng, chúng ta sẽ có khả năng phát huy lòng từ bi chân thành đối với nhiều kẻ khác. Chúng ta phải thực hiện điều này liên tục, chúng ta có thể so sánh sự kiện này với việc chúng ta mồi lửa bằng cách cọ xát hai viên đá với nhau.
Ðể có thể cháy được, chúng ta biết rằng chúng ta cần phải liên tục duy trì sự mài xát làm tăng nhiệt độ lên tới một mức mà gỗ có thể bén lửa cháy được. Tương tự khi chúng ta cố gắng phát triển các năng lực tinh thần như lòng từ bi, chúng ta phải tinh tấn áp dụng những kỹ thuật tâm linh cần thiết để đạt đến kết quả mong muốn. Nếu mãi dùng các phương pháp may rủi chúng ta sẽ không bao giờ thành công.
Trích: An Open Heart
Nguyên tác: Đức Lạt Lai Lạt Ma thứ 14
Chuyển dịch: HT Thích Trí Chơn
-----------------------------------------------------
Một chánh niệm đưa đến giải thoát
Viết bởi Tuệ Dũng
Có một người bạn đến thăm tu viện Sravasti Abbey và đã làm tặng cho chúng tôi những tấm bảng dùng trong các khóa tu để nhắc nhở cho các thiền sinh. Ở bàn để nước uống cô viết, "Xin vui lòng lau chỗ nước đổ. Cám ơn sự chánh niệm của bạn." Ở nơi cửa ra vào, tấm bảng ghi "Xin vui lòng đóng cửa nhẹ nhàng. Cám ơn sự chánh niệm của bạn." Tôi bắt đầu thắc mắc, không biết cô ta nói chánh niệm ở đây là có ý nghĩa gì đây! Dường như chữ chánh niệm (mindfulness) bây giờ đã trở thành một từ thông dụng nghe rất bắt tai, như là chữ karma vậy, lắm người dùng nhưng ít ai lại thật sự hiểu được ý nghĩa của nó.
Rồi gần đây tôi có dịp đọc một bài viết nói về ăn một trái cam trong chánh niệm – chú ý đến cái vị ngọt của nó, cấu tạo của nó, và chính cái kinh nghiệm ăn ấy. Trong một buổi pháp đàm, tôi nghe người ta dùng chữ chánh niệm để diễn tả lại một kinh nghiệm ngồi im quan sát đứa con của mình đang chơi và cảm nhận được giây phút hạnh phúc ấy. Một người khác dùng nó để diễn tả lại cái ý thức của mình có mặt trong giây phút hiện tại: "Tôi có chánh niệm về cơn giận của mình đang khởi lên. Tôi có chánh niệm về ý định của mình muốn nói lời giận dữ. Và tôi hoàn toàn có mặt trong giờ phút hiện tại, hoàn toàn có chánh niệm khi tôi nói lên những lời ấy!" Và chúng ta cũng nghe nói về áp dụng chánh niệm giúp người ta đối phó với những cơn đau kinh niên.
Mặc dù những ví dụ mà tôi vừa trình bày, có vài trường hợp là sự áp dụng có căn cứ và lợi ích của chánh niệm, nhưng chúng có thật sự đưa ta đến giác ngộ chăng? Chúng có phải là cùng với một thứ chánh niệm mà đức Phật đã trình bày trong kinh điển không, khi chánh niệm là một yếu tố thiết yếu trên con đường giải thoát?
Chánh niệm là một từ rất tiện lợi đối với người Tây phương ngày nay, nhưng chữ "buông bỏ" (renunciation) thì không! Chữ buông bỏ mang kèm với nó hình ảnh của một người ở trong một hang sâu, tối tăm, ăn thực phẩm vô vị, sống một thân một mình, và không ti-vi, iPod, điện thoại di động, máy vi tính, tủ lạnh hay thẻ tín dụng. Trong nền văn hóa tiêu thụ của chúng ta, thì buông bỏ được xem như là một con đường đi đến khổ đau. Và cũng giống như chánh niệm, danh từ buông bỏ cũng dễ bị hiểu lầm ở Tây phương.
Đức Phật có định nghĩa như vầy: buông bỏ là một ý muốn được tự do, thoát khỏi dukkha, một tình trạng bất toại nguyện và khổ đau của vòng luân hồi. Buông bỏ không có nghĩa là ta chối từ hạnh phúc, mà là từ bỏ khổ đau và những nguyên nhân của nó.
Vì cái thấy của ta bị che mờ bởi vô minh, cho nên ta ít khi nào ý thức được rõ rệt về khổ đau và nguyên nhân của nó. Và phương cách để đối trị vô minh là một cái nhìn sáng tỏ - không lẩn tránh, không chối bỏ, hoặc tự biện hộ - cho hoàn cảnh của mình, thấy được ngay sự thật của những gì đang xảy ra. Có chánh niệm. Điều này đòi hỏi một thái độ hết sức thành thật của ta, nó thử thách quan niệm của ta về chính mình.
Trong kinh Tưởng Điên Đảo, Vipallasa Sutta thuộc Tăng Chi Bộ kinh IV. 149, đức Phật có nói về bốn cái thấy sai lầm, những ngộ nhận căn bản về kinh nghiệm của ta. Chúng được đức Phật gọi là bốn cái thấy điên đảo, vì sự vật được nhìn trái ngược lại với chân tướng của chúng. Bốn cái thấy điên đảo đó là:
1. Trong vô thường thấy là thường: nắm bắt những gì vô thường và cho đó là thường.
2. Trong khổ thấy là lạc: tin rằng những sự vật trong cuộc đời, mà tự tánh của chúng là bất toại nguyện hoặc khổ đau, sẽ mang lại cho ta hạnh phúc.
3. Trong bất tịnh thấy là thanh tịnh: thấy những gì không thanh tịnh là đẹp và hấp dẫn.
4. Trong vô ngã thấy là ngã: ôm giữ những sự vật mà tự tánh của chúng là vô ngã và không có thực chất.
Trong Vô Thường Nghĩ là Thường
Sáng nay khi thức dậy, bạn có nghĩ là mình đã già đi một ngày và cũng gần kề hơn với cái chết một ngày chăng? Mặc dù lý trí của ta biết rằng cơ thể của mình đang già yếu đi trong từng mỗi giây phút, nhưng cảm nghĩ sâu xa trong ta vẫn là thân này sẽ bền vững mãi và cái chết sẽ không bao giờ đến với mình - hay ít nhất là nó cũng còn xa xôi lắm. Thái độ này là một ví dụ cho ta thấy mình đang ôm giữ thân này như nó là thường, là trường cửu mãi. Và cũng thế, chúng ta xem những mối liên hệ của mình như là cố định và khi có một người thân nào qua đời, ta cảm thấy sửng sốt và bất ngờ. Chúng ta muốn người thân mình sẽ có mặt mãi cạnh bên ta và nắm chặt lấy niềm hy vọng ấy.
Và chúng ta có thể học cách để đối phó với sự vô thường của cuộc đời một cách rất nhẹ nhàng. Nhưng trước hết, ta cần phải thấy được sự sai lầm trong nhận thức của mình về những gì ta cho là thường, là bền vững, và có chánh niệm về tự tánh biến đổi trong mọi người và mọi vật.
Trong Khổ Nghĩ là Lạc.
Bất cứ những gì mang lại cho ta niềm vui cũng sẽ mang lại cho ta những vấn đề: một người hôn phối lý tưởng bỏ ta, đứa con yêu dấu cãi lại ta, công việc mới thăng chức và cũng tăng thêm giờ làm việc và sự căng thẳng cho ta. Những khoái lạc của vòng xoay trong cuộc đời cứ mang đến cho ta hết thất vọng này đến thất vọng khác, nhưng ta lại vẫn cứ tìm đến nó, nghĩ rằng lần này nó sẽ mang lại cho ta một hạnh phúc dài lâu hơn. Chúng ta cũng như một người đánh bạc, tin rằng ván bài mới sẽ mang lại cho ta một vận may lớn. Ta như một tên nghiện chờ một điếu thuốc kế tiếp.
Với chánh niệm ta sẽ thấy rõ được sự điên đảo thứ hai này. Ta sẽ nhận thấy rằng đa số những gì xã hội đã dạy cho ta, và những gì ta truyền lại cho con cháu mình về vấn đề hạnh phúc là không thật. Một hạnh phúc chân thật và bền vững chỉ có thể hiện hữu bằng cách diệt trừ những nguyên nhân gây nên khổ đau - những tình cảm muộn phiền và những hành động (karma) do chúng thúc đẩy.
Trong Bất Tịnh Nghĩ là Thanh Tịnh.
Chúng ta đeo đuổi và dính mắc vào sự hấp dẫn của chính cơ thể mình và của kẻ khác. "Cơ thể đẹp" là một trong những điều mà tất cả chúng ta đều cùng công nhận. Nhưng nếu cơ thể này hấp dẫn đến vậy thì tại sao chúng ta lại tốn hao biết bao nhiêu công sức để thay đổi nó? Chúng ta tìm đủ mọi cách để làm cho cơ thể của mình được nhìn khá hơn: nhuộm tóc, thêm hoặc bớt cân, mặc những quần áo nào mà làm nổi bật những phần trong cơ thể. "Giữ cho được trẻ mãi" cũng là một trong những ngành kinh doanh thương mại lớn lao nhất ở xứ sở này. Nhưng nếu chúng ta cứ sống hài hòa với thực tại thì sao? Tất cả chúng ta đang già. Chúng ta có thể nào học sống hạnh phúc với da nhăn, với tóc bạc, với những bắp thịt mềm yếu đi được chăng? Tuổi già đâu cần phải đáng sợ đến thế, nhưng cái thấy sai lầm của ta biến nó thành như vậy.
Trong Vô Ngã Nghĩ là Ngã.
Một quan niệm sai lầm và nguy hại nhất là chấp có một cái ta thật trong thân và tâm này. Chúng ta nghĩ và có cảm tưởng rằng trong ta có một cái "tôi" thật, và nó là một cái "tôi" quan trọng nhất trên vũ trụ này - hạnh phúc của tôi là thiết yếu nhất, và khổ đau của tôi cần phải được giải quyết trước nhất. Chúng ta tưởng tượng ra hình ảnh của một người nào đó và rồi cứ nhất quyết sống theo đúng cái ảo tưởng ấy. Và đa số những ý nghĩ của ta về mình là hoàn toàn sai trật. Tự tánh của chúng ta không phải là xấu xí, đẹp đẽ, tài giỏi, thua kém, lười biếng, ngu si, thông minh…hay bất cứ một đặc tính tốt lành hoặc thấp kém nào mà ta tự gán cho mình.
Và không những chúng ta nghĩ rằng, trong ta có một cái "tôi" có thật và bền vững làm chủ thân, tâm cũng như cuộc sống của mình, mà ta còn tin rằng những người và vật khác chung quanh ta cũng có một thực thể như thế. Ta tin tưởng rằng mọi vật hiện hữu đúng y theo với hình tướng bên ngoài của chúng. Và cũng vì vậy mà ta tin rằng, những ai là kẻ thù của ta thì họ là những người có bản chất xấu xa và gian ác. Chúng ta đi giành giựt và bảo vệ những gì là thuộc về mình. Vì không thấy được cái tự tánh luôn biến đổi và không có thực thể của mọi hiện tượng mà biết bao nhiêu những phiền não và khổ đau đã sanh lên. Và rồi từ đó ta bị những tình cảm như là sân hận, tham ái, lo âu, lười biếng... sai xử và làm chủ cuộc đời mình. Tất cả cũng bởi vì chúng ta đã đi nắm bắt những gì không thật và cho đó là thật.
Nhờ có chánh niệm về bốn cái thấy sai lầm và điên đảo ấy - vô thường, bất toại nguyện, bất tịnh và vô ngã - mà chúng ta ý thức được khổ đau do chúng mang lại và nguyện từ bỏ chúng. Và đó chính là sự buông bỏ. Chánh niệm phải đưa ta đến sự buông bỏ.
Một chánh niệm ấy sẽ mang lại cho ta một cái dũng và khả năng đi ngược lại với những thói quen và tập quán tự kỷ của mình. Nhìn chung quanh, ta thấy mọi người ai cũng giống như ta, ai cũng muốn xa lìa khổ đau và mong mỏi có hạnh phúc. Và từ đó lòng chân thành muốn giúp đở kẻ khác phát sinh lên. Ý thức được những hạnh phúc mang lại từ sự giúp đỡ kẻ khác, tình thương và tâm từ sẽ khởi lên trong ta. Ta thấy mình có một liên hệ rất mật thiết với tất cả mọi người, mọi loài, và ta nguyện muốn được thanh tịnh và chuyển hóa hết mọi khổ đau của chính mình - được trở thành một vị Phật - để ta có thể giúp người khác trọn vẹn hơn. Và chính bằng cách đó mà chánh niệm đưa ta đến con đường giải thoát./.
------------------------------------------------
Đừng phí bỏ cơ hội này
Viết bởi Tuệ Dũng
Việc có được cái mà ta gọi là một “thân người quý báu” có nghĩa là ta đã được sinh làm một con người và được cung cấp những tự do và thuận lợi nào đó. Không những ta phải có những tiền đề thuộc về vật lý (thân thể) cần thiết cho việc thực hành Pháp, ta cũng phải có một tâm thức bao gồm ba loại niềm tin.
“Những tự do” trong mạch văn này có nghĩa là ta hoàn toàn không bị bận tâm bởi những vấn đề khác. Ví dụ nếu bị sinh ra trong những cõi giới có quá nhiều nỗi khổ, ta sẽ hoàn toàn bị những tình huống đó chi phối đến nỗi không có chút cơ hội nào để thực hành Pháp hay dành hết thì giờ cho những việc tích cực khác.
Đức Phật đã giảng về tám cảnh giới khác nhau không có tự do để thực hành Pháp. Ngài giảng dạy trong một cách thế tương ứng với cách con người thời đại đó suy tưởng (thời đại Đức Phật còn tại thế). Tuy nhiên ngày nay chúng ta nên hiểu rằng những cõi giới đó không được coi như những nơi chốn đặc biệt, mà đúng hơn chúng là những loại kinh nghiệm mà chúng sinh có được như kết quả của nghiệp chín mùi của riêng họ.
TÁM TỰ DO
Ba cái đầu tiên trong tám tâm thái mà Đức Phật đã giảng dạy là ba cõi thấp: cõi hoang tưởng, cõi ma quỷ, và cõi súc sinh.
Khi kinh nghiệm những cõi hiện hữu này, ta sẽ đau khổ dữ dội đến nỗi không thể làm bất kỳ điều gì khác, hoặc ta hoàn toàn không đủ sáng suốt để làm việc với Pháp ở lãnh vực nào đó.
Trong một vài Kinh điển, Đức Phật đã mô tả những tâm thái này theo cách thế cho thấy chúng có thể là những thế giới tương tự thế giới của chúng ta. Những lời dạy này tương ứng với ý niệm mà người ta có về thế giới chúng ta vào lúc nào đó và được đặc biệt ban cho các hành giả Shravaka – những tín đồ của Thanh Văn thừa.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về những trạng thái hoang tưởng này, ta sẽ nhận ra rằng có lẽ chúng không thể có nghĩa là một nơi chốn thực sự, bởi trong Kinh nói rằng kim loại nóng chảy khắp nơi. Nếu chúng ta hỏi rằng ai nấu chảy kim loại và nhiên liệu nào được dùng để đốt lửa thì ta thấy rằng chúng không thể hiện hữu theo nghĩa đen như cách chúng được miêu tả v.v.. Đúng hơn, đó là bởi mỗi cá nhân chúng sinh có duyên nghiệp với loại hiện hữu đó nên kinh nghiệm nó như hoàn toàn có thật. Bởi vô minh và lầm lạc, tâm thức của những chúng sinh đó đã khiến họ kinh nghiệm chính mình giữa một địa ngục.
Tuy nhiên, cho dù nó không là một thế giới “có thật” theo ý nghĩa đó, chừng nào ta còn nghiệp phải chịu đựng trạng thái này thì nỗi khổ được kinh nghiệm sẽ không ngừng dứt. Hoàn toàn bị ảo tưởng áp chế, ta không có khả năng để thử chuyển hóa nó. Ta thực sự cho rằng ta đang ở trong cảnh giới địa ngục và do đó phải chịu đau khổ. Do bởi nỗi khổ khốc liệt này mà ta không thể suy niệm ý nghĩa của Giáo Pháp và không ngó ngàng gì tới việc thực hành Pháp. Cho dù ta có muốn làm những điều ấy cũng không được. Trái lại, có những tâm thái mà kinh nghiệm về hạnh phúc và niềm vui thì hết sức mãnh liệt khiến ta không nghĩ tới việc thực hành. Đó là cõi Trời. Những vị Trời có những cấp độ khác nhau trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Trong dục giới có sáu loại hiện hữu khác nhau, một trong sáu loại đó được gọi là cõi Trời. Một tái sinh trong cõi giới này là kết quả của việc tích tập một số lượng khổng lồ thiện nghiệp. Bởi thiện nghiệp này ta kinh nghiệm hạnh phúc và niềm vui bao la và ta hoàn toàn xao lãng trong đó. Ta muốn được hưởng lạc thú trong tất cả những trạng thái này và không phải trải qua chút phiền não nào. Không phải chịu đựng bất kỳ loại đau khổ nào, ta không quan tâm tới việc nỗ lực thoát khỏi trạng thái này. Đang sống trong niềm vui thú đó, ta cho rằng như thế là đủ và không có động lực để thực hành Pháp.
Sắc giới và vô sắc giới là kết quả của thiền định. Nếu ta bị dính mắc vào cảm giác lạc thú trong khi thực hành thiền định tĩnh, ta có thể kết thúc khóa thiền khi tâm thức hoàn toàn bị hỉ lạc của những trạng thái này chiếm lãnh. An trụ trong trạng thái thiền định sâu xa này, ta không cảm thấy bị ngoại vật cuốn hút, mà hoàn toàn phóng tâm trong niềm vui nội tâm. Không kinh nghiệm bất kỳ cảm xúc đau buồn nào, tâm thức trở nên hết sức an bình và không có động lực để chuyển hóa.
Tuy nhiên, ngay cả trong cõi người cũng có những tình trạng không có cơ hội để thực hành Pháp. Chẳng hạn như khi bị sinh ra ở một nơi con người không có ý niệm nào về những hành động tích cực và tiêu cực, ta không thể đi theo một con đường tốt và tránh con đường xấu. Đây là những trường hợp của các xã hội sơ khai nơi những loại người man dã sinh sống, họ có thể là những con người nhưng không luôn luôn cư xử theo cách thông thường.
Những người khác có thể được sinh ra làm người, nhưng họ hoàn toàn bị vướng mắc trong những tà kiến (những gì đối nghịch với Pháp) khiến họ cũng không thể thực hành. Ví dụ như có những người tin rằng phải thực hiện việc hiến tế những con vật bởi họ đoan chắc việc giết thú vật có thể đưa tới giải thoát. Tà kiến là một vấn đề rất nghiêm trọng, bởi chúng không chỉ cản trở ta trong việc thực hành Pháp, mà thậm chí có thể dẫn dắt ta thực hành một con đường xấu ác nữa. Vì thế đó là một trở ngại lớn cho sự thực hành bị vướng mắc trong các tà kiến.
Những người khác lại bị sinh ra với sự bất lực (bệnh hoạn) trong tâm thức. Họ không có khả năng thấu hiểu ý nghĩa của Pháp bằng cách lắng nghe Giáo lý. Ngay cả khi họ nhận được lời khuyên về điều gì nên làm và điều gì nên tránh, sự khuyên dạy ấy cũng không có ý nghĩa gì với họ. Họ hoàn toàn không thể hiểu điều đó. Từ ngữ Tây Tạng gọi một người như thế là “Kunga.” Mặc dù thuật ngữ cũng được dùng cho người câm điếc, trong mạch văn này nó có ý nghĩa chính yếu là sự bất lực trong tinh thần. Khả năng hiểu biết của những người này rất giới hạn và họ không thể phân biệt được giữa những điều tốt để làm và những điều xấu phải tránh.
Cuối cùng, ta có thể bị sinh ra trong một kỷ nguyên không có chư Phật xuất hiện và sinh ở nơi Phật Pháp hoàn toàn không được biết tới.
Có những thời kỳ khác nhau trong sự tiến hóa của một thế giới mà ta gọi là các “kalpa” (kiếp) hay các thời đại (eon). Giữa các hiển lộ của những Đức Phật lịch sử có những thời kỳ được gọi là “thời đại tăm tối”, khi ấy không có chư Phật xuất hiện. Bị sinh ra trong một thời kỳ như thế có nghĩa là ta không thể nối kết với Pháp và do đó không có may mắn để thực hành. Có “tám tự do” có nghĩa là không bị sinh ra trong một trong tám trạng thái này.
MƯỜI THUẬN LỢI (mười sở hữu)
Tuy nhiên, còn có những điều kiện cần thiết để thực hành Pháp. Đó là mười thuận lợi hay mười sở hữu. Ở đây ta phân biệt hai nhóm, mỗi nhóm gồm năm sở hữu. Nhóm đầu tùy thuộc vào chính nó, nhóm sau tùy thuộc vào những điều khác.
- Điều kiện thứ nhất là ta phải là một con người được trang bị đầy đủ, không khiếm khuyết và hoạt động tốt đẹp như một người nam hoặc người nữ.
- Ta phải có thể gặp được một Đạo sư và tham cầu Giáo lý nơi ngài.
- Sau khi thọ nhận Giáo lý, ta phải có khả năng thực hành Pháp.
- Trong một chừng mực nào đó, ta phải không bị bệnh hoạn trong thân xác hay tinh thần để việc thực hành Pháp không bị cản trở.
- Ta không được phạm một trong năm hành vi cực kỳ xấu ác. Là hậu quả của những việc: gây thương tích cho một vị Phật, giết hại một A La Hán, giết cha hay mẹ hoặc gây chia rẽ trong Tăng đoàn – kẻ mắc phạm sẽ rất khó đạt được bất kỳ cấp độ chứng ngộ nào trong đời này. Những hành vi này hoàn toàn xấu ác.
Bên cạnh năm điều kiện liên quan với chính nó này, còn có năm điều kiện khác liên quan tới những sự việc khác :
- Một vị Phật lịch sử phải hiển lộ trong thế giới này.
- Vị Phật này phải thuyết giảng.
- Giáo lý phải còn ảnh hưởng trong thời đại này.
- Phải còn những vị Thầy trao truyền những Giáo lý này.
- Các vị Thầy phải có khả năng thuyết giảng Pháp một cách thích đáng – nói cách khác là giảng dạy với lòng bi mẫn.
Được sinh ra làm một người được cung cấp mười sở hữu này là giả định tốt đẹp nhất để thực hành Pháp.
TÁI SINH LÀM NGƯỜI QUÝ BÁU
Bởi loại tái sinh này là thuận lợi tốt đẹp nhất để thực hành Pháp nên nó được gọi là “tái sinh làm người quý báu.” Thuật ngữ “rinpoche” trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là “quý báu” hay “viên ngọc quý.” Ở đây nó được dùng để mô tả thân người, bởi thật ra nó rất quý báu và cực kỳ khó được. Một khi đã có được thân người và sở hữu rất nhiều phẩm tính thì đó là một giá trị không thể nghĩ bàn.
Đây là lý do tại sao loại tái sinh này được gọi là “tái sinh quý báu” – có được một thân người mà ta có thể sử dụng trong cách thế đúng đắn để đạt được giải thoát. Thân người rất khó được là bởi tiền đề chính yếu của điều này là hành vi đúng đắn. Để được sinh ra làm một con người, ta phải tránh làm mười hành vi xấu trong những đời quá khứ. Tuy nhiên nếu nhìn quanh ta, ta sẽ nhận ra rằng trên thực tế không có bao nhiêu người từ bỏ được những hành vi xấu ác. So sánh với một thân người bình thường thì một thân người “quý báu” còn khó đạt được hơn nữa. Có cơ hội để thực hành Pháp trong đời này không phải là kết quả của hành vi hoàn toàn tốt đẹp, mà nó đến từ việc phát nguyện mạnh mẽ và có chủ ý được tái sinh theo cách đó, điều này khiến ta có thể phát triển và thực hành.
Cứ xem số lượng người so với số thú vật thì ta rất dễ thấy. Ví dụ như ta có thể và không khó khăn lắm khi tính đếm dân số của một quốc gia. Trái lại, nếu ta muốn đếm số lượng khổng lồ các thú vật thì đó là điều không thể được bởi chúng nhiều vô kể. Điều này cho ta một ý niệm về số người ít ỏi thế nào so với số lượng thú vật.
Hơn nữa, khi thấy rằng chỉ ít người gặp được mười tám điều kiện – tám tự do và mười thuận lợi để thực hành Pháp, ta sẽ nhận ra là cơ hội này thật hy hữu ra sao. Lấy một thành phố lớn có năm triệu dân làm ví dụ, nếu chỉ có một ngàn hoặc mười ngàn người trong số đó thực hành Pháp thì đã là nhiều rồi. Tuy nhiên đây hầu như là trường hợp còn lâu mới xảy ra. Chỉ riêng điều này cho ta thấy thân người quý báu thì hiếm hoi thế nào. Hãy nhìn dân số khổng lồ của thế giới và xem thử số người đã chấm dứt không mắc phạm mười hành vi tiêu cực, không chỉ trong số Phật tử mà còn trong các hành giả của mọi tôn giáo và những người không theo bất cứ tôn giáo nào, ta sẽ thấy số đó ít ỏi nếu so với tổng số người sống trong thế giới. Rồi ta xem thử có bao nhiêu người biết cách phát nguyện vì lợi ích của người khác, thì số người đó cũng không nhiều.
Nhờ truy xét những yếu tố này, ta sẽ trở nên tỉnh giác trong việc ta có thuận lợi và may mắn ra sao khi được làm người trong một hoàn cảnh có thể thực hành Pháp. Nhờ đó ta có thể thấy được rằng sự may mắn này thì cực kỳ hi hữu biết bao. Điều này khuyến khích ta định hướng đời mình vào một con đường đúng đắn, quyết định không bỏ phí cơ hội này bởi như đã đề cập ở trên, đời người này vô cùng khó được.
Ta phải nhận thức rằng sự sống hiện tại của ta thì thực sự ưu việt ra sao và hãy nỗ lực sử dụng nó để đạt được giác ngộ trong đời này. Nếu ta tu tập tốt đẹp, thì mặc dù không hẳn là siêu xuất nhất, ta có thể trở thành các vị Bồ Tát trong đời này. Nếu ta tu tập không tốt lắm, ta có thể trở thành các Pratyekabuddha* (*Pratyekabuddha: “Phật Độc Giác,” bậc tu hành không cầu thỉnh một vị Thầy và nguyện ước đạt giác ngộ mà không cần Thầy). Nếu không thể làm như thế, ta vẫn có thể thực hành con đường tích tập và nối kết** (**Năm con đường: con đường tích tập, con đường nối kết, con đường của cái thấy, con đường tu tập, con đường vô học - một mô tả về sự phát triển tâm linh tiệm thứ cho tới khi giác ngo). Ít nhất ta nên cố gắng không phí phạm cuộc đời này, mà thay vào đó sử dụng nó trong cách thế tốt đẹp nhất có thể được. Với quyết định này trong tâm, chắc chắn ta có thể tránh không bị thối chuyển, có thể giữ vững mức độ của ta, và thậm chí còn phát triển xa rộng hơn nữa. Điều đó cho thấy hoàn cảnh của ta ưu việt như thế nào. Ta nên thực sự cảm kích về điều đó.
Ngài Shantideva (Tịch Thiên) đã giảng dạy điều này bằng cách dùng ví dụ về một vị Thầy và người hầu cận. Nếu vị Thầy trả công hậu hĩnh và đối xử tốt với người hầu, anh ta sẽ vui vẻ và làm việc tốt. Điều này cũng làm ích lợi cho vị Thầy. Trái lại, nếu vị Thầy xử tệ với người hầu, thì tự nhiên là anh ta sẽ làm việc kém cỏi, và vị Thầy sẽ không được hưởng lợi lạc.
Tương tự như thế, ta nên đối xử tốt đẹp với chính mình. Như vậy, về sau ta sẽ thấy mình trong điều kiện vật lý tốt đẹp và có thể phát triển tâm thức một cách tích cực.
Ta không nên bỏ phí chút thời gian nào. Thay vào đó, giờ đây ta nên thực hành Pháp và đừng trì hoãn điều đó, bởi ta có thể chết vào một lúc nào đó và mất đi cơ hội này. Từ giây phút sinh ra, ta tiến gần tới cái chết một cách vững chắc và không thể quả quyết khi nào ta chết. Mọi điều kiện đều có thể gây nên cái chết và ta không biết bao giờ nó xảy ra. Một cách chắc chắn, cái chết tới gần trong từng giây phút. Chính bởi yếu tố này mà khoảnh khắc hiện tại thì hết sức quan trọng và ta nên sử dụng tốt nhất thời gian của ta ngay tại đây và ngay bây giờ.
BA LOẠI NIỀM TIN KHÁC NHAU
Để có thể thực hành, ta cần mười tám điều kiện đem lại thân người quý báu và phải phát triển niềm tin đúng đắn. Loại niềm tin này – đôi khi được gọi là đức tin hoặc lòng sùng mộ, tiếng Tây Tạng là “dapa” lại được phân loại thành ba loại niềm tin:
- niềm tin của sự xác tín,
- niềm tin của sự ước muốn hay khát khao, và
- niềm tin của sự mở trống hay đức tin chân thật.
Căn bản của bất kỳ niềm tin nào là sự xác tín. Loại niềm tin đầu tiên là loại quan trọng nhất, bởi nó được phát triển qua biện luận trong sáng rõ ràng. Ta không nên đi theo bất kỳ điều gì với đức tin mù quáng, mà ta phải tìm ra được một lý lẽ có tính thuyết phục. Ví dụ như có những người tin rằng tham dự vào một cuộc thánh chiến và giết hại người khác sẽ chắc chắn được tái sinh trên thiên đàng. Nếu tin tưởng mù quáng vào điều này mà không có bất kỳ lý lẽ thuyết phục nào thì hàng triệu người có thể bị mê muội, lạc lối.
Đức Phật luôn khuyên rằng đừng tuân theo một vị Thầy chỉ vì sự thu hút của ông ta mà trước tiên phải khảo sát lại những giáo lý của vị Thầy. Bằng cách xem xét kỹ lưỡng giáo lý, ta sẽ khám phá chúng có thật đúng không, và nếu đúng như thế thì ta có thể tuân thủ giáo lý. Ví dụ như nếu ta mua vàng, ta cũng sẽ kiểm tra xem nó có phải là vàng thật không. Giáo Pháp có đặc điểm là càng phân tích nó thì ta càng xác quyết là nó đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Phật cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mỗi người phải tự mình khám phá Giáo Pháp.
Khi ta được giáo lý thuyết phục thì loại niềm tin thứ hai tự động theo sau: ta ước muốn chính mình đạt được giác ngộ. Ta sẽ nhận ra rằng đó là điều đúng đắn và muốn thành tựu nó.
Loại niềm tin thứ ba đòi hỏi sự tinh thông cái thấy thanh tịnh và thấu suốt các phẩm tính của sự giác ngộ. Nếu tất cả những điều kiện này cùng hội tụ: mười tám điều kiện cần thiết cho loại tái sinh đúng đắn, các điều kiện tinh thần cũng như ba loại niềm tin, thì đây là một tình trạng hoàn hảo để việc thực hành Giáo Pháp thực sự có kết quả. Nhờ đó, ta có thể phát triển động cơ đúng đắn, có nghĩa là sử dụng Pháp để làm lợi lạc chúng sinh, và không gặp những trở ngại trên con đường.
Nguyên tác: “We Should Not Waste this Opportunity” - BUDDHISM TODAY, Vol.3, 1997 by Khenpo Chodrak Rinpoche
Việt dịch: Thanh Liên
Quyền hạnh phúc
Viết bởi Tuệ Dũng
Thế hệ hiện đại biết đến một sự phát triển lớn lao, đặc biệt trên phương diện vật chất, nhưng đồng thời, xã hội chúng ta đang lâm vào khủng hoảng và chúng ta phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng.
Có những vấn đề mà nguyên nhân nằm ở ngoài tầm của chúng ta, như những thiên tai chẳng hạn: chúng ta không thể tránh chúng. Ngược lại, nhiều vấn đề khác có thể dành cho chúng ta bởi vì chúng ta phải chịu đựng chúng chỉ do những tính khí khuyết điểm của chúng ta, do sự thiếu sót bi thảm ở nơi chúng ta: tôi đánh giá chúng là dư thừa. Nguyên nhân của chúng là do động lực của chúng ta, chỉ cần chúng ta sửa đổi lại thái độ của chúng ta thì chúng không còn lý do để tồn tại.
Những xung đột này do cái gì? Thông thường nhất là do những sự dị biệt ý thức hệ, tiếc thay đôi khi được nuôi dưỡng bởi những niềm tin tôn giáo khác biệt. Nghĩa là hoàn toàn quan trọng cần có một thái độ đúng đắn.
Có nhiều triết gia đã ra đời. Về phần tôi, tôi xem lòng từ bi là nền tảng, chỗ nương dựa tối thượng của nhân loại. Phẩm chất trỗi vượt này có khuynh hướng thương yêu người lân cận, giúp đỡ họ khi họ đau khổ, tự quên mình vì họ, là một thái độ mà chỉ có con người mới có biện pháp đánh thức. Khi con người vận dụng nó thì lòng tốt, cách cư xử nồng nàn và những phẩm chất của tâm biểu lộ. Anh ta là người được hạnh phúc trước tiên. Những người chung quanh, cảm thấy bầu không khí an vui và thiện cảm mà anh ta làm ngự trị quanh mình, cũng được lợi lạc biết bao. Nhưng loại kinh nghiệm này có thể không dừng lại ở đó mà trải rộng khỏi vòng tròn này. Như thế, người ta có thể tương thông từ cá nhân đến cá nhân, giữa những người công dân, từ xứ sở này qua xứ sở khác, từ lục địa này sang lục địa khác.
Phương pháp cho phép khuyếch trương cách thế tương thông dễ chịu này cần đến sự tư duy phân tích lẫn thiền định. Nó đặt nền tảng trên một nguyên lý căn bản: lòng bi mẫn, sự chăm sóc đối với người khác.
Nhưng người khác không phải là không có “cái tôi”, và theo quan điểm quy ước, cái tôi này không thể chối bỏ được. Chúng ta đều có một cảm giác đích thực, neo sâu vào chỗ sâu thẳm nhất của chúng ta, nó diễn dịch thành: “Tôi muốn điều này”, “Tôi không muốn điều kia”. Cảm thức là mình biểu lộ một cách tự nhiên nơi chúng ta và cũng rất tự nhiên đi kèm một ước muốn hạnh phúc và một từ chối khổ đau; điều không chỉ là tự nhiên mà còn đúng đắn. Chúng ta mong muốn được hạnh phúc, chúng ta không muốn khổ đau: điều ấy hoàn toàn chính đáng. Chúng ta khỏi phải cần biện hộ.
Với tư cách đó, chúng ta có quyền được hạnh phúc và không bị đau khổ.
“Vậy tình cảm tự nhiên này, quyền hạnh phúc này thuộc về tôi hay là cho tất cả?” Các bạn hỏi tôi như vậy. Có một sự khác biệt: khi bạn nói “tôi”, điều đó chỉ liên quan đến một người, còn khi là “tất cả”, thì có nghĩa là đang nói đến vô số người.
Để điều ấy không trừu tượng, nên tư duy bằng cách phác họa trong trí bức tranh sau đây. Hãy tưởng tượng ở một bên là cái tôi của bạn, cho đến lúc này nó chỉ lo lắng cho những ích lợi riêng của nó. Bên kia là một đám đông sinh linh đầy mút tầm mắt. Ở giữa là bạn, nhân tố thứ ba quan sát hai bên.
Có phải cả hai bên có cùng một nguyện vọng được hạnh phúc? Một sự ghê sợ khổ đau ?
Cả hai đều có quyền được mãn nguyện, có phải thế không? Chắc chắn không chối cãi được! Nhưng khi người ta bị điều động bởi tình thương chính mình, thì người ta thấy rằng không có gì quan trọng hơn chính mình cả. Tuy nhiên, dầu giá trị mà lòng ích kỷ tự nhận có lớn đến đâu, nó cũng chỉ đại diện cho chỉ một người, và dầu giá trị nó nhận ra ở người khác có ít đến đâu, thì những người khác ấy là vô số.
Người quan sát vô tư không thể nói ngược lại một điều rõ ràng như thế. Nhận biết dễ dàng số đông lớn lao nhất thì vô cùng hơn chỉ một người, anh ta hiểu rõ giá trị của người khác trong tương quan với chính mình.
Rồi đến câu hỏi sau: tôi có nên dùng những người khác để họ phục vụ cho những mục đích của tôi? Tất cả làm lợi cho chỉ một người, điều đó sẽ không công bằng, và cho dù nó có thể thực hiện được, nó không đủ làm cho tôi sung sướng. Điều đúng đắn là đem những khả năng và cái tốt đẹp nhất của mình để phụng sự cho tất cả. Đó là cội nguồn của niềm vui lớn. Nếu các bạn kiên trì trong thái độ này, với tư tưởng hợp lý này, các bạn sẽ thấy rằng lòng bi, tình thương người khác sẽ lớn mạnh. Các bạn còn có thể trải rộng từ bi đến với những kẻ thù của các bạn. Điều mà sự chấp thủ bình thường không thể làm. Bởi vì, đối với những người thân cận, cha mẹ, con cái, chắc chắn các bạn có tình thương, nhưng đó chỉ vì họ là mẹ “của bạn”, cha “của bạn”, con cái “của bạn”, và vì bạn quý họ. Khi tình thương liên kết với chấp thủ, người ta không thể thương yêu những ai tỏ ra nghịch lại với quan điểm của chúng ta. Chúng ta còn quá chấp dính vào lợi ích riêng tư của chúng ta.
Thật khác với tình cảm nảy sanh từ sự biết ơn trong sáng về cuộc đời trong mọi hình thức của nó, về cái mà nó chịu ơn. Khởi từ đó, tình thương là khá rộng để không loại trừ một ai, ngay cả kẻ thù.
Trong sự tiến bộ này, cần thiết phải phát triển lòng khoan dung và nhẫn nhục. Và ai khác nếu không phải là kẻ thù có thể ban cho chúng ta dịp may để biểu lộ chúng? Cha mẹ chúng ta ư? Các vị thầy của chúng ta ư? Họ không phải là những gì tốt nhất cho điều đó. Đối thủ của chúng ta, chính họ, mới làm cho chúng ta khắc ghi điều đó được. Chúng ta hãy chấp nhận cho họ vinh dự ấy: về vấn đề này, không có vị thầy nào tốt hơn! Bạn bè, vị thầy đặc biệt nhất cũng không sát cánh bằng, cũng ít sốt sắng bằng.
Nhiều lần, tôi đã có thể nhận ra rằng những thời kỳ nặng nề nhất của cuộc đời cũng là những thời kỳ phong phú nhất, về hiểu biết cũng như kinh nghiệm. Khi nào cuộc đời không dẫn chúng ta đi lạc lối, sự tiến bộ dễ dàng, tất cả đều êm dịu, và điều đó rất tuyệt. Nhưng có những ngày xấu, và người ta rơi vào thất vọng và tuyệt vọng. Tuy nhiên, chính là trong sự đối nghịch mà cơ hội đến cho ta để học hỏi. Chính lúc đó sức mạnh bên trong, sự quyết tâm, lòng can đảm được trui rèn để đối mặt với thử thách. Ai đem lại cho chúng ta dịp may này? Kẻ thù của chúng ta.
Điều đó không có nghĩa là người ta phải cúi rạp mình trước họ. Thật vậy, tùy theo những cách thức mà người ta dùng, người ta có thể được dẫn đến một thử thách sức mạnh. Nhưng, ở trong sâu xa của mình, người ta phải không mất sự bình an cũng không quên lòng bi mẫn. Điều ấy hoàn toàn có thể!
Có lẽ các bạn nghĩ : “Chà, Đạt Lai Lạt Ma nói quá!” Hoàn toàn không phải thế. Các bạn có thể kinh nghiệm về chuyện đó và tự phán xét nó. Không gì xứng đáng cho những nỗ lực của các bạn bằng sự phát triển năng lực của tình thương. Tôi đã nói và tôi lặp lại, đó là thông điệp chính của tôn giáo. Trong lãnh vực này, hơn là dấn thân vào những tranh luận triết lý, hãy thâm nhập vào lòng bi mẫn này, nó là tinh túy thực sự của chúng. Người ta có thể tự cho mình là Phật tử khi người ta cố gắng làm tăng trưởng sự mở rộng này, khi cố gắng thực hành đức hạnh này, dù người ta không đặt đức Phật lên đài thờ. Quả thật là vậy. Dầu cho tôn giáo bạn là gì, chớ dừng lại vì những vấn nạn triết lý. Tôi nói điều đó theo ích lợi của các bạn, chấp nhận tính ưu thắng đối với cái thực sự là chính yếu trong cuộc sống hàng ngày của các bạn. Về phương diện này, Phật giáo, Thiên Chúa giáo và những tôn giáo khác không khác nhau mấy. Tất cả đều có cốt lõi là sự tiến bộ của con người, tình anh em và tình thương. Những chủ đích ấy là chung cho các tôn giáo. Hãy nắm lấy cái chính yếu của chúng và các bạn sẽ nhận ra có rất ít bất đồng giữa chúng.
Về Niết bàn mà đôi khi người ta thường tự hỏi, cảm tưởng của tôi là câu hỏi ấy không phải là khẩn thiết nhất. Nếu các bạn theo dòng những tháng ngày của một đời lương thiện và biểu lộ lòng tốt, tình thương, tử tế, quên mình, thì điều ấy sẽ tự động đưa bạn đến Niết bàn. Trái lại, nếu các bạn kèn cựa về những chủ đề triết lý mà không cẩn trọng trong cái hàng ngày, bạn dám đạt đến một thứ Niết bàn xa lạ lắm. Nếu sự thực hành hàng ngày của các bạn là không có gì, chắc chắn đó là điều không thích hợp.
Áp dụng trong đời sống mỗi ngày, những lời khuyên này tỏ ra tuyệt diệu. Bất kể người ta tin hay không vào Thượng Đế, bất kể người ta tin hay không vào đức Phật, bất kể – ngay cả khi người ta là Phật tử – người ta tin hay không vào sự tái sanh! Điều quan trọng là sống một cuộc đời tốt đẹp. Một đời sống tốt đẹp không chỉ tạo bằng thức ăn ngon, áo mặc đẹp và một mái nhà xinh xắn, mà cũng được sinh động bởi những ý định trong sạch, một lòng từ bi không giáo điều cũng không triết lý bác học. Đó là hiểu rằng những người khác, đàn ông, đàn bà là những người anh và những người chị của chúng ta, đó là kính trọng quyền lợi và phẩm giá của họ. Khả năng giúp đỡ lẫn nhau thuộc về con người một cách tuyệt diệu. Người ta cần phải cứu giúp những người trong cơn tuyệt vọng khốn cùng. Không có sự giúp đỡ vật chất, thì bày tỏ sự quan tâm, cho một nâng đỡ về đạo đức, biểu lộ thiện cảm đã là quý giá. Thái độ sống này phải thống lãnh toàn bộ hoạt động của chúng ta.
Trong thế giới hiện đại, theo một số người, tôn giáo chỉ có lý do tồn tại đối với những người ở những chốn xa xôi tận cùng, trong khi trong thế giới của công việc và của chính trị, người ta không biết nó để làm gì.
Tôi không đồng ý. Tôi đã nói với các bạn, niềm tin của tôi thì đơn giản: động cơ chủ yếu là tình thương. Mọi hành động hợp lý và thung dung – đặc biệt những sự việc nhỏ nhặt – đều từ một động cơ. Trong lãnh vực chính trị, nếu các bạn có những ý định trong sạch và với chúng các bạn cải thiện xã hội, lúc ấy bạn là một chính trị gia tốt và lương thiện. Chính trị không có gì xấu trong chính nó. Đôi khi, người ta đổ lỗi cho nó, người ta nói nó “dơ bẩn”: không đúng đâu! Đó là một sự cần thiết, một dụng cụ được tạo ra để giải quyết những vấn đề con người, những khó khăn xã hội. Nó không phải là một sự xấu, nó đáp ứng cho một nhu cầu. Trái lại, khi những cá nhân mập mờ, thiếu cẩn trọng và động cơ chân chính chiếm lấy quyền hành, lúc đó chính trị có thể trở nên “dơ bẩn”.
Chúng ta có thể làm một xét nghiệm như vậy trong lãnh vực tôn giáo: nếu tôi giảng đạo với một động cơ xấu, bài thuyết pháp của tôi trở nên xấu và có hại. Nhưng đó không phải là một lý do để đổ lỗi cho tôn giáo cũng không phải để xem nó là xấu xa.
Vậy thì động cơ là chính yếu. Thế nên tôi đơn giản đặt niềm tin của tôi nơi tình thương, sự tôn trọng người khác và sự ngay thực. Tôi không dành riêng những giá trị này cho lãnh vực tôn giáo. Chúng rất phù hợp với chính trị, kinh tế, thương mại, với khoa học, pháp luật, y khoa, với những kỹ thuật tâm linh có nhiệm vụ trợ giúp nhân loại và chúng có những phương tiện đạt đến để ít ra là lòng tử tế làm sinh động những lãnh vực đó. Nếu không, thay vì đem lại một sự khả quan hơn, chúng lại trở thành một đe dọa cho thế giới, một mối lo sợ cho tất cả. Nhân loại có một nhu cầu sinh tử về lòng bi. Nhìn gần hơn, thế giới này ít hạnh phúc hơn nó có vẻ thế. Khi tôi đến một xứ sở mới, thoạt tiên tất cả có vẻ rạng rỡ. Những người tôi gặp bắt đầu nói với tôi rằng tất cả mọi thứ đều tốt đẹp, họ không có chút gì để than van. Rồi theo dòng ngày tháng, tôi lắng nghe. Tôi nghe họ nói về những vấn đề của họ, chúng rất nhiều, rõ ràng là rất phổ biến. Xã hội đang lâm vào một sự khó chịu sâu xa. Người ta than phiền nhiều về sự cô đơn và sự kiệt sức. Thất vọng, lo âu và khốn cùng về đạo đức là những tình trạng càng ngày càng phổ biến. Công lý và ngay thẳng không tương hợp với mưu mô và ma mãnh. Tự cho là hành động vì lợi ích của những người khác bằng một hậu ý ích kỷ, nói đến hòa bình, tình thương mà chẳng để ý gì đến chúng khi những sự việc hư hỏng, có thể tiến đến những cực đoan như áp bức hay chiến tranh: đó là những dấu hiệu không che dấu được. Chúng nói lên một sự thiếu sót.
Cái khí hậu lo âu này từ nay là tấm màn phông cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Kinh khủng thật, nhưng đó là sự thực. Có thể người ta sẽ nghĩ giải pháp khác, giải pháp chuyển hóa bên trong mà tôi đã đề cập ở trước, là lý tưởng và không thích hợp với hoàn cảnh chúng ta ở đây và trong thế giới hiện giờ. Tuy nhiên, tôi kiên trì nghĩ rằng nếu người ta tiếp tục đồ lại trên một kiểu mẫu xã hội hoàn toàn bị điều kiện hóa bởi tiền tài và quyền lực, ít chú ý đến những giá trị thực của tình thương – kiểu mẫu trong đó nhân loại mất mọi cảm thức về công lý, về lòng tốt và lương thiện – thì những thế hệ tới có thể sẽ làm mồi cho những khó khăn tệ hơn, và những đau khổ còn kinh khủng hơn.
Như thế, mặc dầu một thay đổi nội tâm có vẻ khó khăn, trò chơi đáng được mở màn. Tôi có tin tưởng chắc chắn: phải thử nghiệm điều không thể.
Người ta thành công hay không là một vấn đề khác: cho dầu nếu chúng ta không đạt đến mục đích mà chúng ta đã chỉ định cho mình trong đời này, thì chẳng quan trọng gì. Ít ra chúng ta đã thử xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, đặt nền tảng trên tình thương đích thật và không phải trên lợi ích cá nhân.
Những nhà điều hành bận rộn hàng ngày sắp xếp những vấn đề rõ ràng chỉ nhắm vào những thứ cấp bách nhất. Nhưng điều đó không ngăn được họ đồng thời biết đến những nguy hiểm về lâu về dài mà xã hội và loài người phải chuốc lấy.
Lấy một ví dụ: chúng ta cần một thân thể lành mạnh và khỏe để tránh những bệnh nhỏ nhặt thông thường. Nếu lỡ mắc phải, cơ cấu thân tâm tốt cho phép chúng ta chữa lành nhanh chóng. Cũng thế đối với xã hội. Đầu tư toàn triệt một cách “hiện thực” vào những giải pháp ngắn hạn, vì những lợi ích nhất thời thì giống như uống một viên thuốc vào ngày bệnh. Trong khi cùng lúc lo chăm sóc cho tương lai nhân loại tương tự với việc trau dồi một thân thể lành mạnh. Người ta không thể miễn trừ những biện pháp dự phòng, phải thấy những vấn đề tức thời và những vấn đề dài hạn.
Đã nhiều năm nay, tôi quan sát thế giới, tôi suy nghĩ những vấn đề của nó, như những vấn đề của xứ sở tôi là Tây Tạng. Tôi gặp những người có thiên chức khác nhau từ mọi chân trời. Từ nền tảng, tất cả đều giống nhau. Tôi đến từ Đông phương, các bạn phần đông là người Tây phương. Thoạt nhìn, chúng ta khác biệt nhau. Tôi càng nhấn mạnh những khác biệt của chúng ta thì khoảng cách càng lớn dần giữa chúng ta. Nhưng nếu tôi nhìn các bạn như những người cùng giống loại với tôi, những con người, những đồng loại, với một cái mũi, hai con mắt, khoảng cách tự nhiên sẽ biến mất. Chúng ta được tạo ra từ cùng máu thịt. Tôi muốn hạnh phúc, các bạn cũng thế. Khởi từ sự hiểu biết, nhận ra lẫn nhau này, một sự kính trọng, một sự tin cậy thật tình có thể sinh ra giữa chúng ta. Sự giúp đỡ nhau và hài hòa sẽ tự chúng hiển lộ ra. Đó là cái có thể chấm dứt những khó khăn không cùng.
Trong thế giới ngày nay, tất cả liên hệ chặt chẽ với nhau. Không có một xứ nào, một lục địa nào tự là chủ của vận mệnh mình. Số phận của mỗi cái không thể tách lìa với số phận của tất cả. Vậy thì cái chính yếu là thiết lập giữa chúng ta một sự cảm thông đích thực, với những ý định trong sáng. Như thế chúng ta cùng thành công giải quyết tốt những vấn đề.
Đó là một niềm vui sướng khi tương thông bằng trí tuệ và trái tim từ người này sang người khác, và điều ấy cần thiết biết bao! Một động cơ trong sạch là mấu chốt.
Trích: TRÍ HUỆ VÀ ĐẠI BI
Tenzin Gyatso Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Dịch Việt: Thiện Tri Thức
----------------------------------------------------------
Sống có ý nghĩa
Viết bởi Tuệ Dũng
Ðại sư Gungthang thường dạy rằng: được làm người là một cơ duyên hãn hữu, có khi ta chỉ được làm kiếp người một lần duy nhất mà thôi. Dù chúng ta đã trải qua nhiều kiếp trước đây, ta vẫn chưa biết sống kiếp này sao cho xứng đáng. Hiện nay, chúng ta thật may mắn được sống khỏe mạnh từ thể chất tới tinh thần, lại được tu tập theo Phật pháp. Cuộc đời như vậy thật là độc nhất vô nhị. Giáo pháp của Bụt cũng thật đặc biệt. Khởi thủy là do Bụt Thích Ca Mâu Ni, rồi truyền xuống các vị đại sư người Ấn Ðộ, sau lan qua Tây Tạng (cùng nhiều xứ khác), và ngày nay truyền thống tu tập theo Phật giáo vẫn còn sống động khắp nơi. Tại xứ tuyết băng Tây Tạng, chúng tôi có đủ các truyền thống của đạo Phật. Ðời này thật là thời điểm quan trọng để cho chúng ta cố gắng hết mình, đem Phật pháp áp dụng cho chính-mình-và-cho-tất-cả-chúng-sanh.
Đức Ðạt Lai Lạt Ma
Dù mỗi người chúng ta đều được làm kiếp người quý báu, nhưng chúng thường hưởng đời mà không nhận biết được sự quý giá này. Hơn nữa, chúng ta cũng không nhận ra giới hạn của những cuộc sống khác trong đó ta không có duyên được học và quý trọng giáo pháp: Chim muông, thú vật là những loài sống bên chúng ta nhưng không có khả năng hiểu được đạo. Dù làm người nhưng nếu chúng ta sanh ra, không để tâm gì tới những lời giảng dạy của Phật, thì cũng như loài vật ta không có hiểu biết. Nhiều người tuy có nghe giảng dạy, nhưng vì lý do gì đó không thực tập thì cũng không ích lợi gì mấy. Chúng ta thực là may mắn vô cùng, chúng ta đã không bị sanh ra trong thế giới sơ khai không có Phật pháp. Chúng ta cũng được tự do, không gặp nhiều trở ngại lớn lao, có được những điều kiện thuận lợi như vậy, ta nên nhận thức được tiềm năng và giá trị của hoàn cảnh mình đang có.
Ngay các nhà tiểu thương cũng biết rằng làm ăn phải có thời, đúng chỗ. Muốn bán thứ hàng trái mùa thì chỉ thất bại mà thôi. Tương tự như thế, nhà nông biết về thời tiết đổi thay, họ biết khi nào phải trồng trọt ngay, dù cho có phải làm việc ngày đêm cũng rán làm cho kịp. Là người được tự do và có duyên may, ta phải nắm lấy cơ hội để tận dụng những thuận duyên này. Dĩ nhiên khi nói là chuyện tu tập rất quan trọng, tôi không có ý bắt mọi người ai cũng phải tu. Bó buộc người ta làm chuyện gì ngay cả chuyện tu học, cũng là điều không tốt.
Sự thực tập quan trọng nhất trong đạo Phật là việc chuyển hóa tâm thức. Vì muốn chuyển hóa tâm nên chúng ta mới thiền quán. Thiền là phương tiện giúp ta làm quen với những hình thái tích cực của tâm ý. Trong cách thực tập này, ta cũng tìm cách chế ngự cái tâm nổi loạn và vô kỷ luật của mình. Tâm ý cũng được gọi là ý thức (Mind) là thứ có thể huấn luyện được. Giống như khi ta tập luyện cho loài ngựa, lúc đầu nó là một con ngựa hoang khó điều phục, nhưng ta huấn luyện nó dần dần, nó sẽ nghe lệnh ta.
Thời gian đầu tiên cũng vậy, khi tâm ý ta chưa quen tùng phục, nó thường có nhiều ý nghĩ bất thiện và ta khó kiểm soát được nó. Khi ta thiền quán và làm quen với những gì tốt lành, ta có thể huấn luyện và từ từ chuyển hóa tâm ý. Thiền quán là cách để ta hay đổi tâm ý, chuyển đổi nó thành ra tốt đẹp hơn.
1.- CHUYỂN HÓA TÂM THỨC
Khi ta suy ngẫm về giá trị của đời người, cùng có cơ hội hãn hữu ta đang được hưởng, ta sẽ thấy cần phải chuyển hóa tâm thức của mình, và ta cũng mong tới được bờ giác nữa. Ta cần thiền quán để tập cho tâm ý quen với chủ đề ta quán tưởng, thí dụ quán Từ bi chẳng hạn. Như vậy ta sẽ chuyển hóa tâm ý của mình. Thí dụ như mỗi khi nghĩ tới những đau khổ của chúng sanh, chúng ta nảy sinh tâm trách nhiệm, muốn giúp đỡ họ. Từ gần gũi, ta trở nên quen thuộc với những hành động tích cực.
Khi ta gặp một người nào đó lần đầu tiên, ta không nhận biết được những thái độ, thói quen hay cảm xúc của họ. Nhưng khi quen với họ hơn, ta sẽ quen với những cách phản ứng của họ. Chơi với bạn tốt thì ta sẽ nhiễm tính tốt. Ta cũng có thể giảm bớt được những thói xấu nhờ có bạn tốt, vì ta cẩn thận không muốn làm gì phiền lòng bạn. Trong tâm thức chúng ta có rất nhiều, không thể đếm xuể các loại tâm ý đặc biệt. Tâm ý có ba loại chính: một là trung tính, hai là có ích lợi (thiện) và ba là loại bất thiện. Ta cần phải làm quen với tâm sở thiện cũng giống như ta nên chơi với bạn tốt. Ta cần nuôi dưỡng những tâm sở tích cực, những thứ có lợi lạc cho ta. Giống như khi làm vườn, ta nên trồng hoa và những cây hữu dụng, nhưng ta cũng phải nhổ bỏ cỏ dại đi.
Khi nói tới chuyện tạo những gì có giá trị tinh thần cho tâm, ta phải tự mình cố gắng xử dụng ngay tâm trí mình. Ta phải giảm thiểu những nhận thức bi quan tiêu cực và nuôi dưỡng tăng cường những gì tích cực. Trước hết, phải biết phân biệt những nhận thức tích cực với những gì tiêu cực có tính cách phá hoại. Ta phải nuôi dưỡng và phát triển những gì tốt đẹp. Với những tâm ý phiền não như giận hờn, ghen tỵ, tranh đua, vướng mắc, ta cần tìm hiểu vì sao chúng lại có hại, vì đâu chúng khởi lên trong tâm thức ta để làm cho ta đau khổ, mất hạnh phúc? Hiểu được những trở ngại do chúng mang tới, ta có thể làm cho chúng nhỏ lại được. Ta không thể nói một cách giản dị rằng những nhận thức đó có hại vì trong kinh điển dạy như thế. Ta phải tự quan sát mình để thấy được chúng có hại ra sao.
Thí dụ như khi ta nổi giận và biểu lộ cơn giận đó ra một cách mạnh mẽ dữ dằn, ta thường nói những lời khó chịu với người khác. Khi nổi điên lên, ta không còn sáng suốt phân biệt gì được. Mặt mũi ta xấu xí một cách khủng khiếp, thái độ bất an thấy rõ. Những gia đình liên tục cãi nhau có hạnh phúc hơn chăng? Những nơi người ta chống đối, tranh đấu với nhau liệu có hòa bình không? Dĩ nhiên là không. Nếu bất ngờ ta có một người khách hay nóng giận, có lẽ ta không hoan hỷ tiếp đón họ. Nhưng nếu khách là một người vui tính, từ ái thì ta sẽ mời ngồi chơi và rót trà ngay. Ta có thể dễ dàng nhận ra những tính giận hờn, ganh tỵ, háo thắng nơi người khác.
Căn bản của tất cả những tính bất thiện nơi ta gồm ba thứ: tham, sân và háo thắng. Khi ta biết được những tai hại của các tâm ý này, ta có thể nhận ra được những dấu hiệu khi chúng sắp phát khởi. Nhận biết được như thế, ta có thể hướng dẫn tâm ý mình về phía thiện. Thực tập theo cách này rất hiệu quả và có ích lợi. Khi nói về thiền, chúng ta thường nghĩ tới chuyện lên núi cao ngồi tĩnh lặng. Phật pháp thực ra là để chuyển hóa tâm thức, cách duy nhất để chuyển hóa là ta phải thiền quán và thực tập liên tục. Dù ở đâu, ta cũng có thể thực hiện được sự chuyển hóa này.
Mỗi khi ta đạt tới một sự hiểu biết nào đó qua cái nhìn phân tích của thiền quán, ta nên chú tâm vào điều đó một thời gian. Kết hợp thiền quán phân tích với sự chú tâm vào một đối tượng có thể giúp ta chuyển hóa tâm ý mình dần dần. Phương pháp này hữu hiệu hơn là tụng cả trăm lần bài kinh cầu nguyện. Theo phương pháp này, ta có thể làm cho cuộc đời quý giá có ý nghĩa. Thay vì thực tập ngay, bạn lại hẹn sẽ làm vào ngày mai hay tháng sau hoặc năm tới bạn, sẽ không làm kịp. Nếu bạn nghĩ mình chỉ có thể thực tập sau khi làm xong dự án này hay thu xếp xong công chuyện kia... thời gian tu tập sẽ không bao giờ tới. Ta biết rằng khi vướng vào chuyện đời, càng ngày ta càng có nhiều việc để làm hơn, giống như biển không bao giờ ngưng nổi sóng. Tốt hơn ta nên biết dừng lại và bắt đầu tu tập.
2.- BẮT ÐẦU NGAY
Khi tôi còn nhỏ, tôi chỉ phải học thuộc lòng và tụng kinh. Tôi có nhiều ngày giờ nhưng không thích tu lắm. Khi tôi vào lứa tuổi hai mươi, tôi cố gắng hơn và có chút hiểu biết về chân lý, Niết bàn. Tôi hy vọng được tĩnh tu dài hạn chừng ba năm hoặc ba tháng, nhưng càng ngày tôi càng bận bịu không có thì giờ. Hiện tại dù bận rộn, tôi vẫn thường tạo ra thì giờ để tu tập.
Dù là tăng ni đã thọ giới sống trong phòng riêng, họ cũng luôn luôn có chuyện làm. Không bao giờ bạn có thể được tự do, ra khỏi tất cả các sinh hoạt. Vậy nên mỗi ngày bạn phải kiếm cho ra thì giờ để tu học. Mỗi sáng bạn nên dạy sớm hơn để có thể thiền quán trong vòng một hai tiếng đồng hồ. Nếu bạn bảo rằng khi hết việc bạn sẽ thực tập, có nghĩa là bạn không thực sự muốn tu học theo Phật pháp. Thầy Gangthung đã nói: "Nếu bạn muốn tu tập, đừng bao giờ để tới ngày mai hay ngày mốt mới bắt đầu". Phải bắt đầu ngay bữa nay, để tới một ngày nào đó có thể khi có thì giờ thì bạn đã chết mất rồi. Chết là chuyện chắc chắn, nhưng khi nào chết thì không ai biết được, nó có thể tới bất kỳ lúc nào, nên ta không thể trì hoãn việc tu tập.
Tu tập khi còn trẻ là chuyện quan trọng vô cùng, vì khi đó thân tâm ta còn nhiều năng lực và tươi mát. Bình thường khi già yếu người ta thường bị bệnh và trí nhớ suy giảm. Những người tu tập từ khi còn trẻ, lúc già thường cũng hoạt động nhanh nhẹn, tươi mát và trí tuệ minh mẫn. Khi tu tập lâu, quen với cách chuyển đổi tâm thức rồi, thì lúc chết ta có thể đưa tâm ý ta vào việc thực tập thiền quán. Thực tập giỏi, bạn sẽ vui vẻ đón chào cái chết. Tu tập vừa vừa, bạn sẽ không sợ chết và dù tu tập kém, sẽ không có gì tiếc hận lúc lìa đời.
Bắt đầu, chúng ta tịnh hóa các hành nghiệp bằng cách nhìn nhận chúng một cách cởi mở. Thỉnh triệu mười phương chư Bụt và chư Bồ tát, chúng ta sám hối những nghiệp dữ đã phạm vì vô mình từ bao kiếp. Chúng ta xin nhận lỗi và sám hối. Vì sao ta lại sám hối tất cả các nghiệp xấu? Vì nếu không làm, các nghiệp này sẽ có khả năng chỉ huy ta khi cái chết tới. Vậy nên ta cầu tha lực, nương tựa vào đó để thoát khỏi những quả xấu các các nghiệp mình đã gây. Ta phải nhận ra và tịnh hóa các nghiệp dĩ cho nhanh vì cái chết không báo trước ngày nào sẽ tới. Nó không đợi cho ta làm xong mọi thứ như định, nó không chờ và cho phép ai sống thêm chỉ vì người đó chưa thực hiện đủ thiện nghiệp. Dù khỏe mạnh hay đau yếu cũng không khác: cái chết không đợi ai bao giờ. Nó có thể lấy mạng ta khi ta chưa sẵn sàng.
Cuộc đời qua mau và rất phù du. Ta sẽ phải bỏ lại tất cả của cải và thân quyến. Nếu không hiểu được vậy ta thường hay tạo nghiệp dữ của thân, khẩu, ý đối với những người thân hay sơ. Dù họ có thân tình hay không, tất cả rồi sẽ biến đi. Bạn cũng chết. Hơn nữa, chúng ta dù đã tạo nhiều nghiệp xấu hay tốt với họ rồi ta cũng sẽ ra đi. Bạn, thù, bà con, của cải tất cả đều tạm bợ, vô thường và sẽ biến đi hết. Sẽ tới lúc chúng ta không thể nào nhìn thấy hay nghe được tiếng họ nữa. Ta chỉ còn thấy họ trong trí nhớ. Ta sẽ thấy mọi chuyện như một giấc mơ. Tất cả đều là hiện tượng và môi trường mà ta đã sống đều chỉ là những ký ức mờ nhạt.
3.- THIỆN NGHIỆP VÀ ÁC NGHIỆP
Tuy nhiên những nghiệp dữ mà ta đã tích lũy sẽ còn đó, dù cho thù và bạn ta đã biến đi, những nghiệp dĩ sai trái đã gây ra sẽ còn vướng bận trong tâm ta, làm cho ta phiền não, nếu ta không tìm cách tịnh hóa và tẩy bỏ chúng. Vì không hiểu được bản chất phù du của mình, chúng ta không biết rằng mình chỉ còn sống một thời gian ngắn nữa thôi, nên chúng ta bị tham, sân, si hướng dẫn gây nên bao ác nghiệp. Chúng ta lãnh đạm với chúng sanh, quyến luyến bạn bè và hờn giận ganh ghét kẻ thù. Ta tích lũy những nghiệp dĩ như vậy từ lâu đời, trong khi đó cuộc đời ta cứ ngắn dần. Ngày không chờ và đêm cũng không đợi. Từng phút từng giây thời gian trôi qua và cuộc đời ta cứ thu ngắn lại. Ðời người tiến tới chung cuộc một cách chắc chắn, không thể thay đổi được.
Cuối cùng ta chỉ có thể nương tựa vào những nghiệp thiện ta đã làm. Nếu bạn sống có đạo đức, nếu đã thực tập mười điều thiện, phát triển lòng từ bi tâm bạn có thể có những năng lực mạnh mẽ của thiện nghiệp, thì đó là những thứ duy nhất giúp được bạn khi cuộc đời chấm dứt. Không ai và không có cái gì khác giúp bạn nữa. Lúc đó tâm bạn không còn chỗ ẩn náu, và bạn có thể thấy mình đã không tạo nhiều nghiệp thiện. Bạn sẽ than thở: "Chỉ vì vô minh, không hiểu biết về tình trạng dễ sợ lúc này, lại bị lôi cuốn vào vòng dục lạc của những thú vui nhất thời mà tôi đã tạo nên nhiều nghiệp dữ trong cuộc đời phù du. Tôi đã lãng phí thì giờ vào những hoạt động vô nghĩa".
Nơi nương tựa đích thật chính là Phật pháp. Chúng ta cũng quy y với Phật và các vị Bồ tát, nhưng theo trong kinh đã dạy chư Bụt không tẩy sạch được nghiệp ác cho chúng sanh bằng cách dùng tay gở bỏ chúng đi. Chư Bụt cũng không thể hoán chuyển trí tuệ của các ngài vào tâm ý chúng ta được. Chúng sanh chỉ được giải thoát khi thấy được chân lý. Chúng ta phải nương tựa vào pháp là thứ thật sự bảo vệ ta...
Như vậy, nghĩa là ta phải nương vào sự thực tập Phật pháp. Khi ta bị một chứng bệnh thông thường, ta cũng phải nghe lời y sĩ. Vậy thì khi đau khổ vì trăm ngàn phiền não trong tâm thức, ta nương vào pháp nghĩa là phải nghe lời dạy của đức Thế Tôn, ngài vốn được coi là một lương y. Không có thuốc nào chữa khổ đau tận gốc rễ ngoài lời giảng của Bụt.
Trong thế kỷ này, hai trận thế chiến I và II đã giết hại nhiều người. Một tập thể đông đảo (khoảng 6 triệu) người Do Thái đã bị Ðức Quốc Xả giết hại. Nhiều triệu người chết trong thời Stalin, thời Mao. Nguyên nhân vì tâm thần những người cầm quyền đó bị nhiễu loạn. Khi chúng ta không biết cách kềm chế những rối loạn trong tâm thức, thì chúng sẽ tự tung tự tác, kết quả có thể là những tàn phá khủng khiếp. Chúng ta có thể nói rằng một người điên loạn cũng có khả năng hủy diệt cả nhân loại rồi. Tất cả những rắc rối khổ đau, phiền trược của loài người trên thế giới này đều vì những trạng thái tâm thần bất an, nhiễu loạn.
Tất cả những tính thiện, hạnh phúc đều do ý muốn làm việc có ích lợi giúp người khác (lợi tha), dù cho các công trình đó thuộc về thế tục hay trong chiều hướng tâm linh. Dù cho ta không theo một tôn giáo nào, tất cả chúng ta ai cũng cần có tấm lòng thiện. Như vậy ta sẽ thực chứng được hòa bình và an lạc. Khi có người cười với mình, có phải ta sung sướng hơn chăng? Khi người ta nhăn nhó hay cằn nhằn mình, ta cũng khó chịu chứ? Chúng ta là loài sinh vật sống thành xã hội, nguyên tắc căn bản của đời sống là sự hợp tác và sự tương quan mật thiết với nhau. Tinh thần hợp tác được xây dựng trên lòng từ ái đối với nhau. Nếu chúng ta có lòng từ ái, thì chúng ta sẽ có hạnh phúc trong gia đình, với hàng xóm và cộng đồng mình đang sống.
Ngược lại nếu ta cứ âm mưu chống đối giận dữ nhau, ta sẽ có thể rất giàu sang nhưng không có hạnh phúc. Trong những chế độ độc tài, có những kẻ làm gián điệp theo dõi mọi hành động trong cộng đồng, ngay cả trong gia đình họ nữa. Kết quả là không còn ai tin được ai, lúc nào cũng nghi ngờ mọi chuyện. Một khi chúng ta không còn tin tưởng, và không biết quý trọng lòng thành thực của ai khác thì làm sao ta sống hạnh phúc được? Ta sẽ phải sống trong một xã hội đầy sợ hãi, nghi ngờ và ta sẽ giống như một con quạ, sợ cái bóng của chính nó.
Vậy nên có tâm ý muốn tạo phúc lạc cho người khác, cho chúng sanh là điều kiện thiết yếu cho một cuộc đời an lạc Ngày nay, tại các nước đã phát triển, có nhiều tiến bộ về kỹ thuật và vật chất. Nhưng vì con người thiếu bình an nội tại và lòng từ bi trong thâm tâm, các quốc gia này đang phải đối diện với khá nhiều vấn đề. Nếu nghĩ rằng chỉ có tiền là đủ đem lại hài lòng và hạnh phúc thì thật quá lầm lẫn. Lòng vị tha chắc chắn là một điều kiện đáng kể.
Do sự tiến bộ về kỹ thuật tiềm năng phá hoại của chiến tranh hiện đại lớn không thể tưởng tượng. Dĩ nhiên chúng ta sẽ cho rằng đôi khi phải cần tới chiến tranh để xây dựng hòa bình. Nhưng làm sao ta có hòa bình lâu dài căn cứ nơi chiến tranh, hận thù và bắn giết kẻ khác? Sự hợp tác thực thụ, hòa bình và phúc lạc lâu bền chỉ có thể xây dựng trên tinh thần từ bi bác ái. Khi nào đi ra nước ngoài giảng pháp, tôi cũng nhấn mạnh rằng lòng từ ái thương người rất là quan trọng. Trong kinh điển đạo Phật điểm chính yếu là phải biết nuôi dưỡng lòng vị tha. Ðó là lòng mong mỏi phát triển Phật tánh để cứu khổ cho mọi loài.
SỐNG HẠNH PHÚC - CHẾT BÌNH AN
The Joy of Living - Dying in Peace
Đức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14
Dịch: Chân Huyền
HÃY SỐNG
TRONG THẾ GIỚI BIẾT ƠN
Hãy biết ơn những người khiển trách ta
Vì họ giúp ta tăng trưởng Định Tuệ.
Hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã
Vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ.
Hãy biết ơn những người bỏ rơi ta
Vì họ đã dạy cho ta biết tự lập.
Hãy biết ơn những người đánh đập ta
Vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta.
Hãy biết ơn những người lừa gạt ta
Vì họ tăng tiến kiến thức cho ta.
Hãy biết ơn những người làm hại ta
Vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta.
Hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được
Kiên Định Thành Tựu
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét
Xin thường niệm A Di Đà Phật